NHÂN QUẢ
VỚI SỐ MỆNH VÀ VẬN MỆNH ĐỜI NGƯỜI
CON NGƯỜI LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ. TRÊN SAO - DƯỚI VẬY
CON NGƯỜI BUỘC PHẢI LUÂN HỒI ĐỂ NHẬN LÃNH NGHIỆP QUẢ DO CHÍNH MÌNH LÀ TÁC GIẢ
CHÒM SAO BẮC ĐẨU TRƯỞNG QUẢN VẠN SỰ CỦA ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
33333
PHẦN A
SỐ MỆNH DO NHÂN QUẢ TẠO THÀNH
I- SỐ MỆNH - VẬN MỆNH KHÔNG PHẢI LÀ ĐỊNH MỆNH
1. Số mệnh: Mỗi người sinh ra cất tiếng khóc chào đời vào giờ, ngày, tháng năm nào đó, tại thời điểm đó tạo thành Số Mệnh của con người, vì rằng quy luật thời gian có chu kỳ lập đi lặp lại xoay vòng, sẽ mang theo các năng lượng sự sống từ quá khứ đến (Phật giao gọi là nghiệp), các năng lượng này hình thành do hoạt động (Thân - Khẩu - Ý tức suy nghĩ) của chính mỗi người chúng ta, mỗi gia đình, dòng tộc hay nhóm người, mỗi quốc gia và cả nhân loại hoạt động tạo ra chúng. Mỗi hoạt động đều được lưu trữ trong không gian vô tận. Theo quy luật, khi thời gian đến thì mỗi người, mỗi gia đình, dòng tộc ...... ai là tác giả của các hoạt động tạo tác từ Thân - Khẩu - Ý trước đây của chính mình, nay hiện diện trong giới nhân loại, trong kiếp sống này thì đều phải nhận lãnh lại phần nghiệp mà chính mình trước đây đã tạo ra, dù là quả tốt dù xấu, điều này dẫn đến cuộc sống trong kiếp này họ hạnh phúc hay khổ đau, giầu có hay nghèo hèn, sống thọ hay chết yểu... Phật giáo gọi là Nhận Quả Nghiệp Báo, hoạt động ghi nhận và hoàn trả theo quy luật thời gian. Chính điều này tạo ra số mệnh, trên cơ sở giờ, ngày, tháng năm sinh của một con người hay một gia đình, dòng tộc, quốc gia và cả nhân loại. Đức Phật có dậy: Nhân duyên những người cùng sinh ra trong một gia đình không ngoài bốn loại Nghiệp là Báo Ân - Báo Oán - Trả Nợ - Đòi Nợ. Nếu bạn hiểu biết đúng điều này, không nên lo sợ vì nó chẳng ích gì, mà hãy Tu Tâm Sửa Tính, làm theo lời Phật dậy, Quý Bạn hoàn toàn có thể sửa đổi số mạng của đứa con bạn đến với mình, dù cho đó là oán thân trái chủ đến đòi nợ tiền tài của bạn, làm bạn và gia đình nhẹ thì hao tài tốn của, nặng thì phá sản tù tội, thậm trí nó đến với bạn là để đòi nợ tính mạng của bạn, vì chính bạn đã nợ mạng chúng trong kiếp sống quá khứ. Tất cả các điều này đều hoàn toàn có thể hóa giải nếu Bạn Tu Hành đúng cách và kịp thời, đặc biệt ngay khi bạn đang mang thai, hoặc chậm nhất sau khi sinh bảy ngày đọc tụng Kinh Địa Tạng và hồi hướng cho con bạn, nếu bạn tin sâu nhân quả thì chắc chắn sự nhiệm màu sẽ đến, HÃY TIN TƯỞNG TUYỆT ĐỐI ĐIỀU NÀY, VÌ CHỈ CÓ LÒNG TIN VỚI TÍN TÂM SÂU SẮC THÌ SỰ NHIỆM MÀU LUÔN TƯƠNG ỨNG - ĐÓ LÀ LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT.
Nhân quả nghiệp báo nó giúp ta nhận biết và giải thích được rằng, với cùng Cha - Mẹ sinh ra trong một gia đình, tại sao lại có người khôn kẻ dại, người thông minh tuyệt đỉnh, kẻ ngu xuẩn khù khờ, người đầy đủ chân tay và năm căn, người thiếu hụt chân tay hay năm căn không hoàn chỉnh .... Đó chính là do Nghiệp Quả quyết định mức tiến hóa của mỗi con người.
Theo đó, con người khi sinh ra có thể quy nạp vào các mức tiến hóa của Tâm thức gồm: Người chưa tiến hóa (Người Thú) - Người Cảm Dục (Bị Thể tình cảm/ Cảm dục chi phối cuộc sống) - Người Trí Cảm - Người Tiến Hóa hay Người Thông Minh (Thể Trí phát triển), họ có thể là Người Chí Nguyện bắt đầu bước vào Đường Đạo - Người Đệ Tử - Người Đắc Đạo (Đã được Điểm Đạo)
2- Lá số sinh mệnh: Căn cứ vào quy luật thời gian, trải qua hàng ngàn năm nghiên cứu ứng dụng, cả đông phương lẫn tây phương người ta đều đã có các phương pháp tạo ra Lá số sinh mệnh, tuy khác nhau về tên gọi, nhưng đều dùng quy luật thời gian để tính toán và có cùng mục đích là dự đoán số mệnh con người thông qua quy luật thời gian. Ví như phương đông có môn xem số mệnh qua Lá số Tử vi hay Lá số Tứ trụ; Phương tây có Lá số Chiêm tinh.... Gần đây, Chân Sư Minh triết còn giới thiệu với nhân loại một phương pháp mới và vô cùng khó, nhưng giá trị không thể tính đếm được nếu ai đó có thể nắm bắt, ứng dụng được vào đời sống nhân loại, đó là: Chiêm tinh học nội môn - Dự đoán số mệnh cho mọi người để có cuộc sống tốt đẹp hơn, nó còn đặc biệt hữu ích với nhóm ít những người tiến hóa cao trong nhân loại, để họ có định hướng tiến đến giới siêu nhân loại nhanh hơn, chắc chắn hơn, an lành hơn.
3- Vận Mệnh: Là Sinh mệnh trải qua quy luật thời gian. Ví như theo môn tứ trụ thì mỗi Vận quản 10 năm. Nghiên cứu Vận mệnh, dựa trên quy luật thời gian, người ta biết được loại năng lượng nào đang tác động thái dương hệ, vào các hành tinh, đến nhân loại và các giới trong tự nhiên. Từ đó, người ta có thể dự trắc được năng lượng loại nào đang tới, ai sẽ chịu tác động của chúng, xấu tốt ra sao, các dự đoán đúng sẽ làm cơ sở để giúp con người "Đón cát - Tránh hung" khi nó đến. Chân Sư D.K phát biểu rằng: " Nghiệp và Thời gian là hai từ có nhiều đồng nghĩa ", bởi vì các năng lượng vũ trụ theo quy luật thời gian, khi nó đến, mang theo nghiệp quả của mỗi người, dòng tộc ... và thông thường thì họ buộc phải đáp ứng với các năng lượng này dù tốt dù xấu mà không thể trốn tránh được, chính nó tạo lên cuộc sống của bạn, dù bạn đang cảm thấy cuộc sống ấy hạnh phúc an lành, vạn sự như ý hay đang bệnh tật, hoạn nạn, khổ đau triền miên. Do đó, nếu bạn không Tu hành để sửa Tâm tính và hành động của mình, thì nghiệp chính là định mệnh, chẳng thể trốn tránh khi thời gian đến. Đức Phật có dậy: Tu hành CHÂN THẬT hoàn toàn có thể thay đổi được Nghiệp báo, do đó, với người Tu, số mệnh chẳng thể là định mệnh bạn nhé.
>>> DO ĐÓ VẬN MỆNH CÓ THỂ DỰ ĐOÁN ĐƯỢC NHỜ DỰA VÀO QUY LUẬT THỜI GIAN. CÁC BỆNH NẠN CÓ THỂ PHÂN LOẠI ĐƯỢC ĐỂ GIÚP BẠN NHANH CHÓNG THU NHỎ PHẠM VI - TÌM RA CHỦ ĐỀ CẤP THIẾT - ĐÁP ỨNG NHU CẦU VỀ THỜI GIAN KHÔNG CÒN NHIỀU (VỚI BỆNH NAN Y), ĐỂ QUÍ VỊ KỊP THỜI CHỌN ĐÚNG PHƯƠNG CÁCH TU HÀNH ĐỂ CHỮA TRỊ VÀ CẢI MỆNH, SẼ CÓ ĐƯỢC KẾT QUẢ TỐT ĐẸP, THẬM CHÍ NHIỆM MẦU.
3- Định Mệnh có hay không:
a- Định mệnh là có: Nếu bạn không tin Luật Nhân quả, không tin có Số mệnh, bạn sống với mục tiêu thuần vật chất (Không Tu hành) thì đó sẽ là Định mệnh, cái gì đến nó sẽ đến, bạn không thể trốn tránh và sửa đổi chúng được (Các nghiệp mình đã gây tạo).
b- Định Mệnh không có: Những ai tin sâu Luật Nhân quả, tin là có Số mệnh, cũng tin tưởng tuyệt đối vào giáo lý Đức Phật dậy: NGHIỆP - SỐ MỆNH có thể thay đổi được, thậm trí thay đổi hoàn toàn, thay đổi siêu vượt ngoài sức tượng tượng của bạn nếu bạn có ý chí, quyết tâm Tu hành theo Phật dậy đúng cách, luôn tìm cầu sự dẫn dắt của các bậc giác ngộ để tinh tấn tu hành, không Tu chệch đường, kết quả sẽ vượt ngoài mong đợi của bạn. PHẬT PHÁP NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN.
BẠN TIN CÓ SỐ MỆNH HAY KHÔNG? ĐÓ LÀ QUYỀN TỐI CAO CỦA BẠN.
- VỚI NGƯỜI TIN: HỌ TIN SÂU NHÂN QUẢ TẠO THÀNH MỆNH SỐ, TIN VÀO LUÂN HỒI. HỌ PHẢI TU TẬP HÀNG NGÀY KHÔNG CHẤP TRƯỚC VÀO CÁI TA, CÁI CỦA TA. THẬT HÀNH BUÔNG XẢ VẠN DUYÊN LÀ VÌ HỌ HIỂU CHÚNG CHỈ LÀ ẢO ẢNH, DO NGHIỆP MÀ CHÚNG TẠM THỜI HIỆN HỮU, NGHIỆP HẾT THÌ CHÚNG KHÔNG CÒN. VÌ HIỂU RÕ NHƯ VẬY MÀ HỌ LUÔN LUÔN BẰNG LÒNG VỚI VẠN SỰ SẢY ĐẾN DÙ XẤU DÙ TỐT, ĐỂ SỐNG TRONG AN NHIÊN TỰ TẠI Ở HIỆN TẠI, TỐT HƠN NỮA LÀ HỌ SẼ LUÔN SỐNG TRONG VĨNH CỬU, BỞI VÌ HỌ BIẾT, HỌ KHÔNG PHẢI LÀ THÂN XÁC HỮU HÌNH HỮU HOẠI NÀY, MÀ LÀ LINH HỒN CAO QUÝ TRƯỜNG TỒN, HỌ TÍN TÂM THÀNH KÍNH TIẾN TU ĐỂ TƯƠNG LAI, HỌ SẼ THÀNH TỰU PHẬT QUẢ. HỌ SẼ SỐNG HẾT TUỔI THỌ THEO MỆNH SỐ ĐÃ ĐỊNH, THẬM CHÍ TUỔI THỌ CÒN DÀI HƠN MỆNH SỐ DO BỞI KẾT QUẢ TU TẬP TÂM LINH ĐÚNG CÁCH CỦA HỌ.
- NGƯỜI KHÔNG TIN: HỌ SỐNG TRONG SỰ CHẤP TRƯỚC CÁI TA - XEM THÂN XÁC NHƯ THẬT LÀ CHÍNH HỌ, ĐỨC PHẬT GỌI LÀ VÔ MINH - NGUỒN GỐC CỦA LUÂN HỒI. DO ĐÓ HỌ LUÔN SỐNG TRONG THAM ĐẮM MỌI THỨ ĐỂ PHỤC VỤ CHO CÁI TA VÀ LUÔN KHÔNG THỎA MÃN NHỮNG GÌ HỌ CÓ. VÍ NHƯ HỌ LUÔN PHẤN ĐẤU ĐẾN KIỆT SỨC ĐỂ CÓ ĂN NGON MẶC ĐẸP, TIỀN TÀI GIẦU CÓ, DANH TIẾNG VANG XA, NHÀ CAO CỬA RỘNG, VỢ ĐẸP CON KHÔN ... RỒI LẠI MUỐN SỨC KHỎE TRÁNG KIỆT, KHÔNG BỆNH TẬT HOẠN NẠN ĐỂ SỐNG THỌ ... DO ĐÓ HỌ RA SỨC TẠO BIẾT BAO NGHIỆP XẤU ÁC MÀ KHÔNG HỀ BIẾT, ĐỂ MONG CÓ ĐƯỢC CÁI HỌ MUỐN. NHƯNG THƯỜNG THÌ CHẲNG NHƯ HỌ MONG MUỐN. HỌ KHÔNG BIẾT RẰNG, HỌ ĐANG TẠO TÁC RA BIẾT BAO HẠT GIỐNG CỦA KHỔ ĐAU, BỆNH TẬT, HOẠN NẠN, LO LẮNG, SỢ HÃI... RỒI TỔN THỌ - CHẾT YỂU MÀ HỌ KHÔNG HAY, VÀ THƯỜNG CHẾT KHI CHƯA HẾT SỐ PHẬN TRỜI ĐỊNH, ĐÁNG BUỒN THAY.
+ Dù sao, với đa số nhân loại, cả người tin và người không tin đều không biết kiếp sau mình sẽ ở vào cõi giới nào: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, hay làm người, Atula, Thiên nhân. Quả thực kiếp sau ở Cõi Giới nào là do Bạn, chính bạn, quyền tối cao là ở bạn, do bạn quyết định tùy theo mức thực hành tâm linh ở kiếp sống này đạt được những gì. Tu không bao giờ là chậm.
4- Cảnh báo đáng suy ngẫm của Pháp Sư Tịnh Không, tôi xin phép mô tả lại đại ý như sau: Nói thật với quý vị, với vô lượng kiếp sống, mỗi người đều không có việc gì là không giám làm như trói buộc, hành hạ và tàn sát súc sinh thì vô kể, hay như trộm cắp, cướp bóc, gây thù chuốc oán cho đến giết biết bao người, kể cả cha mẹ anh em, năm tội ngũ nghịch,...v.v.. nói chung không gì không giám làm.....
Theo Luật nhân quả thì gieo nhân nào thì hưởng quả đó, giết người sẽ bị người giết lại ...., quả thực, mỗi người sẽ không biết được rằng sau khi rời bỏ xác thân này rồi, mình sẽ tái sinh ở đường nào, nếu rơi vào trong 3 đường ác Địa ngục/ Ngạ quỷ/ Súc sinh thì khỏi phải nói, không lời nào mô tả được hết sự khổ đau sương tan thịt nát muôn lần, tối tăm mịt mùng, nóng lạnh vô độ... Còn nếu có thể được làm người, thì liệu có được đầy đủ chân, tay, tai, mắt, mũi... bình thường không? Cơ thể có bệnh tật liên miên dẫn đến sống khổ chết yểu hay không? Sinh ra ở thời hòa bình hay chiến tranh tàn khốc, loạn lạc liên miên, hay rừng sâu núi thẳm, nơi vùng biên xa sôi... dẫn đến chịu cảnh chết chóc, bỏ nhà bỏ cửa di tản, đói khổ cùng cực, luôn sống trong sợ hãi lo âu, cái chết cận kề. Hoặc nếu được sinh ra nơi phồn hoa đô hội đi chăng nữa, bản thân và gia đình có được cuộc sống bình an hạnh phúc, vinh hoa phú quý ... hay lại rơi vào thành phần bần cùng khố rách áo ôm, nghèo đói lê lết, hay là chịu cảnh ăn xin nơi đầu đường xó chợ, gầm cầu ...v..v... QUẢ THỰC TẤT CẢ ĐỀU CÓ THỂ SẢY RA VỚI BẤT CỨ AI. MONG RẰNG CHÚNG TA SẼ GIÀNH THỜI GIAN SUY NGẪM KỸ VỀ ĐIỀU NÀY.
+ Vận Mệnh = Nhân nào quả đấy. Số mệnh, theo quy luật thời gian luôn bao gồm những thời điểm biểu hiện các tương tác của Khí ngũ hành thuộc Số Mệnh của mỗi người, với Khí ngũ hành theo quy luật thời gian, sinh ra sự biến đổi Khí ngũ hành của Số Mệnh mỗi người. Mà mỗi Khí ngũ hành lại đại diện cho mỗi Người, vật, việc tồn tại xung quanh chúng ta, liên thuộc đến mỗi người, vật, việc, do đó nó tạo ra Cát - Hung, ảnh hưởng đến những người, vật, việc liên thuộc đến nó >>> Điều đó lý giải tại sao mà Số Mệnh có thể dự đoán được, đặc biệt dự đoán chính xác với người không Tu tâm dưỡng tính - Sống thuận theo Số mệnh > Do không sửa đổi Số Mệnh.
Đáng tiếc, đa số người trong chúng ta, sinh ra trên cõi đời này đều là người Phúc mỏng, cho nên, muốn chiến thắng Số Mệnh một cách tốt nhất, mạnh nhất, hữu hiệu nhất là tinh tấn, một lòng học Phật Pháp. Chỉ có học Phật bạn mới có thể hoá giải bệnh nạn, chiến thắng trái ngang, vui vẻ sống hết cuộc đời và rất có thể, bạn đã vĩnh viễn dời bỏ được thế giới Ta bà này - Thế giới của buồn phiền, khổ đau và được sinh về cõi nước Phật A Di Đà - Không còn Sinh tử luân hồi, THẬT TUYỆT VỜI ĐÓ BẠN!
=> HÃY GHI LẠI BẠN "GIEO" GÌ "THIỆN" HÔM NAY, SẼ ĐÁNH BẠI PHẬN BẠC CỦA NGÀY MAI - ĐÓ LÀ PHÉP MẦU "PHẬT ĐÃ DẠY"
Mục tiêu cuốn sách là tập hợp kiến thức tổng hợp theo từng nhóm ngành nghề liên quan để giúp bạn thực hiện một vấn đề, một chuyên đề hay cả một dự án, dự tính, một phương án muốn triển khai .... cuốn sách giúp bạn ít tốn kém thời gian nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá .... mà vẫn đạt được mục đích của bạn đề ra và phù hợp nhất với Định Mệnh của bạn, ví dụ:
PHẦN B
TÌM HIỂU NGUỒN GỐC CỦA SỰ SỐNG LUÂN HỒI
I- Định nghĩa Vô minh
1. Theo Minh Triết mới
+ Vô minh - Avidya: Là tình trạng lầm lẫn giữa cái thường tồn, thanh khiết, chí phúc và Bản ngã với cái vô thường, ô trược, đau khổ và phi ngã.
- Tình trạng vô minh này là đặc điểm của những kẻ mà cho đến giờ chưa phân biện được giữa chân với giả, giữa tử vong với bất tử, giữa ánh sáng với bóng tối. Do đó, vô minh chi phối sự sống trong 3 cõi thấp vì có sự tương ứng giữa vô minh trên cõi trần như con người đang nhập thế trải qua với vô minh trên tất cả các cõi. Nó là một hạn chế của chính Tinh thần và là hậu quả tất yếu của việc khoác lấy hình hài..... con người phát triển ngũ quan tức là năm con đường tiếp cận cái phi-ngã - Để có thể tiếp xúc và hiểu biết môi trường cuộc sống hình thể. (ASCLH, 131–132)
2. Theo Phật Giáo:
+ Kinh Vô Minh (Si Mê - Tương ứng Cõi Súc Sinh): Tôn Giả Xá-Lợi-Phất đáp (nguồn); “Minh là biết; biết gọi là minh.”
- Chỉ sự u mê, không hiểu Tứ diệu đế, Tam bảo và nguyên lí Nghiệp. Vô minh khởi đầu của 12 nhân duyên, là nguyên nhân làm con người vướng trong Luân hồi. Vô minh là một trong 3 Ô nhiễm, một trong 3 Phiền não và khâu cuối cùng của 10 Trói buộc.
- Vô minh là gốc của mọi bất thiện trong thế gian và cũng là Khổ đau. Ðó là tình trạng tâm thức không thấy sự vật "như nó là", cho ảo giác là sự thật và vì vậy sinh ra Khổ. Vô minh sinh Ái và đó là yếu tố cơ bản sinh ra sự tái sinh.
- Vô minh xuất phát từ quan điểm chấp trước tiên thiên của ý thức, và từ đó mà xây dựng lên một thế giới của riêng mình, cho thế giới đó những tính chất của chính mình và ngăn trở không cho con người thấy thế giới đích thật. Vô minh cũng là không thấy thể tính thật sự, và thể tính đó là tính Không. Như thế vô minh có hai khía cạnh: một là nó che đậy thế giới đích thật, hai là nó xây dựng cái ảo, cái giả. Hai mặt này cứ luôn luôn dựa vào nhau. Ðối với Kinh lượng bộ và Tì-bà-sa bộ thì vô minh là cách nhìn thế giới sai lạc, cho thế giới là thường còn, mà thế giới có thật chất là vô thường.(Nguồn)
+ Vô Minh - Niết bàn: “Khi thấy, nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn”.- Kinh Lăng Nghiêm (Nguồn)
+ Chánh kiến và vô minh: Kinh Chánh Kiến - Phật dậy (Xem nguồn)
- 12 nhân duyên: Từ vô minh mà có hành, từ hành mà có thức, từ thức mà có danh sắc, từ danh sắc mà có lục nhập, từ lục nhập mà có xúc, từ xúc mà có thọ, từ thọ mà có ái, từ ái mà có thủ, từ thủ mà có hữu, từ hữu mà có sinh, từ sinh mà có lão tử, và khổ đau chồng chất thành khối.
- Nếu vô minh không còn thì hành không còn, hành không còn thì thức không còn, thức không còn thì danh sắc không còn, danh sắc không còn thì lục nhập không còn, lục nhập không còn thì xúc không còn, xúc không còn thì thọ không còn, thọ, không còn thì ái không còn, ái không còn thì thủ không còn, thủ không còn thì hữu không còn, hữu không còn thì sinh không còn, sinh không còn thì lão tử không còn và nguyên khối khổ đau chồng chất kia bị tiêu diệt.
+ Đức Phật dậy: Phàm có những bất thiện pháp nào, tất cả chúng đều lấy vô minh làm cội rễ, đều lấy vô minh làm điểm tựa, đều châu đầu vào vô minh, tất cả chúng đều đâm đầu vào một gốc. (Kinh Tương Ưng Bộ)
+ Vô Minh Là Khổ Nhất: Đức Phật dạy "Bị thiêu đốt dưới địa ngục chưa phải là khổ, bị đói khát trong loài ngạ quỷ cũng chưa phải là khổ, bị kéo cày kéo xe cũng chưa phải là khổ. Chỉ có mờ mịt không biết lối đi đó mới là khổ". Vì khổ ở địa ngục hết tội rồi cũng được ra. Khổ ở ngạ quỷ hết kiếp ngạ quỷ cũng được sanh trở lại. Khổ ở loài súc sanh kéo xe kéo cày, hết nợ rồi cũng được trở lại làm người. Chỉ có mờ mịt không biết lối ra, tức là không biết đường đi để thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó mới là cái khổ hơn hết. Bởi còn trong lục đạo luân hồi thì cứ quay vòng sanh rồi tử, tử rồi sanh, không biết bao giờ mới xong (HT.Thích Thanh Từ - Facebook Thu Trang)
+ Diệt Vô minh: Ðức Phật dạy: "Người thấy được Ðạo cũng như cầm đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền mất, còn lại ánh sáng. Người học Ðạo mà thấy được chân lý thì vô minh liền diệt, chỉ còn trí tuệ". KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG.
II. Hành động từ Vô minh
Vô minh duyên cho HÀNH: Hành là sự chủ tâm, cố ý hành động qua thân khẩu ý để tạo nghiệp thiện, nghiệp bất thiện hoặc không tạo nghiệp : hành đồng nghĩa với nghiệp. Về phương diện đạo đức có 3 loại hành :
a/ Phúc hành: là nghiệp thiện qua thân, khẩu, ý : - Qua thân : bố thí, trì giới, tham thiền, phục vụ, kính trọng người đáng kính, hồi hướng công đức, tùy hỉ, học đạo, luận đạo, rèn luyện chánh kiến. - Qua khẩu : nói lời chân thật, lời đoàn kết, hòa nhã, lời lợi ích. - Qua ý : tu tập không tham, không sân, không ngã mạn, không tà kiến, không nghi ngại.
b/ Phi Phúc hành: là nghiệp bất thiện qua thân, khẩu, ý:
- Qua thân : bỏn xẻn, ôm giữ, phá giới (phạm luật), ăn chơi hưỏng thụ, khinh khi người già, ganh tức, ghen ghét, không học hỏi đạo lý, không trao đổi ý kiến, chấp thủ tà kiến, buôn lậu, bán vũ khí, chất độc hại, buôn bán nô lệ.
- Qua khẩu : nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ, nói nhảm nhí.
- Qua ý: tư tưởng tham ái và ngã mạn, ý nghĩ sân hận và bạo hành, những tư tưởng diễn dịch sai thực tại, những tư tưởng đi ngược lại với định luật thiên nhiên và con người.
c/ Bất động hành: là những hành động không tạo nghiệp, không tốt không xấu.
=> Nói tóm lại :
* Bản chất của Hành : là sự phối hợp của tâm với một số tâm sở thích hợp dưới sự chủ động của tâm sở tư (cetana) để tạo nghiệp.
* Thể hiện : hành động qua thân, khẩu, ý. * Kết quả : nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, hoặc không tạo nghiệp.
* Nguyên nhân trực tiếp là Vô Minh. Mời xem hành động Vô minh (Nguồn)
4. Vòng luân hồi - 12 nhân duyên cho ta biết: - Hai nhân gốc:
- Quá khứ Vô Minh khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hành).
- Hiện tại Ái dục cũng khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hữu)
* Vô Minh là cha, Ái dục là mẹ, khổ đau là con. (sư Giác Tuệ)
6. Theo đạo Phật có 4 cách chết :
a/ Chết vì hết tuổi thọ : tuổi thọ của mỗi loài sinh vật đã được định trước theo những định luật di truyền và những điều kiện sinh sống của mỗi loài, mỗi cá thể. Tuổi thọ của con người ở các nước văn minh được kéo dài. Hiện tại Nhật và Pháp là những nước có nhiều người sống trên 100 tuổi nhất.
b/ Chết vì hết nghiệp : nghiệp ở đây có thể được hiểu là sinh nghiệp của kiếp sống đó hoặc nghiệp của toàn bộ kiếp sống của một chúng sinh, như vậy chúng sinh nầy đã đắt đạo quả A la Hán, đã thoát khỏi dòng sinh tử luân hồi.
c/ Chết vì hết tuổi thọ và hết nghiệp : đây là cái chết của người lớn tuổi, đã sống hết tuổi thọ sinh học và đồng thời hết nghiệp của kiếp sống đó - hoặc là cái chết của một vị A la Hán đã hết tuổi thọ (như của Đức Phật, của ngài Ananda (120 tuổi), ngài Ca Diếp…) Những vị nầy đã chết vì hết tuổi thọ và đồng thời cũng chấm dứt mọi nghiệp báu từ những tiền kiếp.
d/ Chết vì một Đoạn nghiệp : có những Đoạn nghiệp cho quả làm cắt đứt thình lình dòng sinh nghiệp trước kỳ hạn của kiếp sống. Đây là cái chết bất đắc kỳ tử do tai nạn, bịnh tật, hoặc tự tử. Sinh nghiệp là năng lực có thể làm phát sinh và duy trì tâm và sắc trong đời sống hiện tại, đồng thời lúc vừa chết có khả năng tái tạo một đời sống mới, nó là sức mạnh để đưa đi tái sinh. (Nguồn)
III- Hiểu thấu về Vô minh:
Nguồn gốc của luân hồi sinh tử xuất phát từ Vô minh, rất cần hiểu thấu rõ để tu hành xóa bỏ vô minh mới mong bước chân vào đường Đạo để sớm giải thoát luân hồi khổ đau.
Xem thêm: Tổng hợp về Vô minh
IV- Thuyết duyên sinh thuận nghịch
Đức Phật dạy đại để:
Chiều thuận: Cái này có thì cái kia có => Có Vô minh thì có Luân hồi
Chiều nghịch: Cái này không có thì cái kia không có => Xóa Vô mình - Không tạo nghiệp thì cây Luân hồi chết - Con người được giải thoát Niết bàn.
Xem thêm: Tái Sinh và Luân hồi trong lục đạo
Xem thêm: Vô minh theo Phật giáo
V- NHẬN THỨC VỀ NGUỒN GỐC GÂY TẠO NGHIỆP QUẢ:
+ Ba nghiệp sáu căn: Con người tu phúc và tạo nghiệp, tóm tại chẳng qua ba nghiệp sáu căn:
- Ba nghiệp là nghiệp thân, khẩu và ý. Thân nghiệp có ba: sát sinh, trộm cắp, tà dâm.........
Sáu căn là: mắt- Sắc trần (cảnh vật), tai- Thanh trần (âm thanh), mũi- Hương trần (mùi hương), lưỡi- Vị trần (vị), thân- Xúc trần (cảm giác ở thân), ý - Pháp trần (cảnh ở trong tâm).;- Năm căn trước thuộc về thân nghiệp, Một ý căn sau thuộc về tâm, tức là ý nghiệp
PHẦN C
CHÒM SAO BẮC ĐẨU THẤT TINH TRƯỞNG QUẢN HỌA PHÚC NHÂN GIAN
+ Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật
Tôn giả A – Nan kể: Đúng như thế này, chính tôi được nghe. Một thời Phật ở tỉnh cư Thiên Cung, tập họp chủ Thiên : Phạm Vương Đế Thích, Bát bộ tử chúng đàm luận pháp yếu. Khi thấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi từ tòa đứng dậy, tiến đến trước Phật mà bạch rằng:
Thưa Đức Thế Tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu Âm Dương, Ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ thảy đều do nơi Bắc Đẩu Bắc nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà 7 sao Bắc Đẩu ở giữa trời có uy quyền uy đức tối tôn như vậy? Cúi xin Thế Tôn vì chúng con tuyên thuyết, tất cả nhân Thiên và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ Tát Văn Thù và đại chúng rằng:
Quý hóa lắm thay! Ta nay sẽ vì ông và chúng sinh ở đời vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều cùng hiểu biết, công đức lớn lao của 7 sao ấy, phúc thì quyền sinh, ân thí muôn cõi.
Vị Bắc Đẩu thứ nhất: ” Đại Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Tối Thắng Phương Đông hiệu là Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ hai:” Đại Phước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh Quân ” là vị Cổ Phật ở thế giới Diệu Bảo Phương Đông, hiệu là Quán Âm Tự Tại Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ ba:” Đại Quyền Chân Thân Lộc Tồn Chính Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Viên Châu Phương Đông hiệu là Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ tư: ” Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Hữu Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Vô Ưu Phương Đông hiệu là Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ năm: ” Đại Tất Đán Nguyên Liêm Trinh Cường Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Tĩnh Trụ Phương Đông, hiệu là Quảng Đạt Trí Hiện Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ sáu: ” Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Pháp Ý Phương Đông, hiệu là Pháp Hải Du Hỉ Như Lai.
Vị Bắc Đẩu thứ bảy : ” Phiêu Thiên Quan Phá Quân Quan Tĩnh Quân ” là Cổ Phật ở thế giới Mãn Nguyện Phương Đông hiệu là Dược Sư Lưu Lý Quang Như Lai.
Ngoài ra còn có vị thứ tám ( Đông – Minh Ngoại Phu Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Hỉ Phương Tây, hiệu là Hoa tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Vị thứ chín ( Ấn Quan Nội Bật Tinh Quân ) là Bồ Tát ở thế giới Diệu Viên Phương Tây, hiệu là An Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Khi ấy Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và các đại chúng nghe Phật khai diễn các sao Bắc Đẩu đều là Cổ Phật Như Lai, ứng cúng, chính biến trì, minh hành túc, Thiên thệ Thế gian giải, Vô thượng sĩ , Điều – Ngự – trượng – phu – Thiên – Nhân, sư, Phật , Thế tôn khắp vĩ chúng sinh, hóa thân thị hiện.
... Khi ấy Phật bảo tất cả đại chúng rằng:
- Có thiện nam hay tín nữ nào mà hàng năm cứ ngày 8 tháng Giêng, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và hàng tháng cứ ngày 7, ngày 9 với ngày sinh mình mặc y phục sạch đối trước tinh tượng chí tâm xưng niệm Danh hiệu 7 vị Phật và 2 vị Bồ Tát thời tùy tâm nguyện cầu gì cũng thấy cảm ứng ngay.
- Lại nếu có thể thắp 7 ngọn đèn bày theo tinh vị rồi lúc nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa tinh thủy dốc lòng khẩn cầu ắt được như ý.
- Ông Văn Thù này! Khắp cõi tể – quan, cư sĩ, tăng – ni, đạo – tục dù sang dù hèn cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh.
- Khi đã được nghe diễn nói kinh này mà biết thắp đèn bầy theo tinh vị của các sao Bắc Đẩu rồi cung khính đem các thứ hương hoa tinh thủy cúng đàn thời những người ấy lộc vị cao sang, thọ mệnh kiêm trường, hưởng phúc vô lượng vô biên.
Ông Văn Thù này ! Bắc Đẩu Cổ Phật quảng đại từ bi, thị hiện giữa bầu trời, chủ trương niên – mệnh , thống lãnh Càn Khôn. Trên từ vua- chúa, dưới đến nhân dân, trời đất núi sông, chim muông cây cỏ, tất cả đều do Thất Tinh Bắc Đẩu cai quản soi chiếu.
+ Mời xem Kinh văn gốc: (Xem Kinh Phật Thuyết Thiên – Trung Bắc Đẩu Cổ Phật)
+ Trang web có hình Cổ Phật tại đây
PHẦN D
TÌM HIỂU VỀ TIẾN TRÌNH LUÂN HỒI CỦA CON NGƯỜI
I- Giới thiệu về Linh Hồn bất diệt
1. Linh hồn cá nhân đầu thai luân hồi
2. Linh hồn nhóm - Linh hồn tập thể
II- Giới thiệu về Thánh Đoàn - Sự Hiển Lộ của Thánh Đoàn
1. Giới thiệu về Thánh Đoàn
2. Sự hiển lộ của Thánh đoàn
=========*********=========
Nhân Trắc Học chúc quí vị vạn sự lành!