PHÁP TU HÀNH
THÀNH THIỆN NAM TỬ - THIỆN NỮ NHÂN HAY TÍN NỮ
Phật pháp ở thế gian không phá hoại pháp thế gian!
PHẦN I
LUÂN THƯỜNG ĐẠO LÝ TRONG ĐẠO LÀM NGƯỜI
"Chỉ những ai có đủ đạo đức lương thiện là cao cấp, còn lại là ti tiện_Đức Phật"
"Người thuận theo Đất - Đất thuận theo Trời - Trời thuận theo Đạo - Đạo thuận theo tự nhiên_Lão Tử"
“Trong các đức tính thì hạnh bác ái (Lòng nhân - Tình thương yêu) là quan trọng hơn hết, nếu không có hạnh bác ái thì các đức tính khác không bao giờ đầy đủ_Chân sư”
I- CHỮ ĐẠO - NGŨ LUÂN VÀ ĐẠO ĐỨC:
1- Đạo là gì:
* Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ_Lão Tử.
+ Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa.... Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu.
Đạo là Đạo vũ trụ bao gồm: Đạo trời, đạo đất và đạo người. (Nguồn: Đạo Đức Kinh)
2- Chữ Đạo ở người - Chữ Luân: Con người có Vợ chồng là đạo, cha con là đạo, anh em là đạo, bè bạn là đạo, vua tôi là đạo, (vua là người lãnh đạo, tôi là người bị lãnh đạo), đây là “ngũ luân”. Hỏi bạn năm thứ này do ai đặc ra? Là ai phát minh? Là ai quy định? Không có! Đây là nguyên tắc tự nhiên. Cho dù bạn có văn hóa hay không, người mọi rợ họ cũng có, người văn minh cũng Đạọ làm người, bạn không thể nào thoát khỏi năm cái này, cho nên năm cái này là nguyên tắc tự nhiên, đây là "đạo", đạo của tự nhiên.
=> Đạo là làm lợi ích cho người khác. Có hai mức (i) - Không gây tổn hai; (ii)- Phụng sự hết mình vì người khác. Con người sống không đúng Đạo, tức ích kỷ hẹp hòi thì gia đình bất hòa, khủng hoảng tinh thần, thiên hạ đại loạn, tự nhiên phát sinh động đất, sóng thần, dịch bệnh đại họa.
3- Chữ Đức gồm 12 chữ: “Hiếu (Hiếu thảo) - Để (Kính trọng) - Trung (Trung thành) - Tín (Tín nhiệm - Tín tâm) - Lễ (Lễ phép - Lế nghi) - Nghĩa (Nghĩa khí - Bổn phận) - Liêm (Liêm khiết) - Sỉ (Hổ thẹn) là tám đức tánh căn bản làm người
=> Đức là tự mình được lợi ích qua việc làm đúng trách nhiệm và bổn phận làm người. Dù với người có tín ngưỡng tôn giao hay không, họ đều phải có ít nhiều đức hạnh này để làm người. Nếu không có được điểm nào thì họ không bằng một con thú, ví dụ như con Chó, con Mèo còn biết biểu lộ yêu thương, bảo vệ thân chủ.
Còn bốn đức hạnh: Nhân (Tình yêu thương - Không gây tổn hại) - Ái (Giúp đỡ) - Hòa (Hòa thuận) - Bình (Bình đẳng)” => Giao tiếp lợi mình và lợi người hay Tự lợi và lợi tha nhân.
12 chữ này là hoàn toàn tương ưng với đạo, tương ưng với nguyên tắc của tự nhiên. Không có nó - Thế giới liền loạn thôi, bạn sẽ khổ. (HT Tuyên Hóa giảng)
+ Tu trì 12 chữ Đức này có thành tựu thì trở thành 12 Đức Hạnh của Người Người Quân Tử/ Thiện Tri Thức. Nó cũng tương ứng việc tu trì thành tựu Giới - Định - Tuệ trong Phật giáo. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
4- Đạo đức được hiểu là “nguyên lý tự nhiên là đạo, được vào lòng người là đức; cái lý pháp người ta nên noi theo”. Có rất nhiều lý tưởng và nguyên tắc khác nhau về “đạo”, nhưng tất cả đều có chung một nền tảng cơ bản là dựa trên cái thiện, trong sáng, lành mạnh, chân chính để mưu cầu hạnh phúc và an bình cho con người. (Nguồn: Đạo làm người)
+ Đạo Đức: Nguyên lí thiện ác, chính tà có liên quan đến hành vi của nhân loại. Đạo đức (tập tục), bởi vì tập tục là nền tảng của đạo đức và pháp luật, trong đó, pháp luật là phép tắc trong hoạt động xã hội, còn đạo đức thì là mẫu mực tất yếu của cá nhân trong phép tắc sinh hoạt xã hội loài người. Ngài Khổng tử đề cao Nhân, Đức là trung tâm của quan hệ nhân luân. ... Trong tinh thần căn bản của Phật giáo, thì Đức là tự mình được lợi ích; Đạo là làm lợi ích cho người khác. Bài kệ trong Thất Phật thông giới nói (Đừng làm các điều ác, Nên làm các việc thiện, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy). Xem bài kệ trên có thể lí giải được quan niệm đạo đức nhân luân của Phật giáo. (Nguồn: Thư Viện Hoa Sen)
+ Khi gia đình và xã hội sống đúng Đạo, thì vạn sự theo Đạo chẳng cần nhắc đến. Nhưng khi bất hòa phát sinh mới nói đến chữ hiếu - Đạo nghĩa - Trung thần ... Đạo lý trong đoạn kinh nầy cũng giống như điều của Lão Tử muốn nói. Nếu chỉ có một yếu tố, thì sẽ không có gì trở nên hỗn trược. Nhưng vì chúng kết hợp với nhau và hình thành một khối, nên hư vọng sanh khởi. Điều nầy chứng minh rằng trong mọi pháp, đều có cái chân cái nguỵ, cái giả cái thật. (Nguồn: HT Tuyên Hóa giảng)
II- CHỮ THƯỜNG:
Đạo lý làm người có ngũ Thường, gồm:
NHÂN (Nhân hậu) - NGHĨA (Chính nghĩa) - LỄ (Lễ phép) - TRÍ (Trí tuệ) - TÍN (Uy tín)
Người nào phạm 5 điều này thì đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này thì lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xã hội ngày nay, lại so với mình, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm mình, tự mình có làm được hay không? Tự mình đời sau có được thân người không? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì đời sau nhất định đọa trong ba đường ác. (Nguồn: PS Tịnh Không giảng)
PHẦN I
ĐẠO LÀM NGƯỜI THIỆN NAM - TIN NỮ
I- NĂM ĐẠO LÝ LÀM NGƯỜI THIỆN LÀNH (NGŨ THƯỜNG):
1- Chữ NHÂN: Đức Nhân - Lòng nhân, chữ Nhân trong "nhân hậu - Nhân ái", cũng tức là không gây tổn hại, có lòng yêu thương đối với tất cả chúng sinh. Ứng với hành Mộc trong ngũ hành. Là nhân từ độ lượng đối người tiếp vật.
Đức "Nhân" chẳng phải chỉ hàm súc đủ mọi hạnh lành, đức tốt, mà là cái phản ảnh đức háo sanh của Thượng Đế nữa. Về phương diện nầy "Nhân" khởi đầu tại lòng thương xót (Trắc ẩn chi tâm), nên người ta thường dùng chữ "Ái" kèm theo, thành danh từ kép “Nhân ái” để diễn tả sự thương yêu được đầy đủ.
Làm người trước nhất phải ưu tiên học và thành tựu đức nhân, mà cốt lõi của đức nhân là đạo "Hiếu thân tôn sư - Phụng sự sư trưởng", sau đó mới học đến các vấn đề khác.
Lòng nhân cũng được gọi là lòng Từ Bi trong Phật giáo. Lòng từ bi thì rộng lớn bao trùm hơn Lòng nhân, vì người có tình thương với tất cả chúng sinh không phân biệt, cũng không dính mắc và ái nhiễm. Lòng Bi là nguyện giúp đỡ chúng sinh mà không đòi hỏi được báo đáp.
Sách Dưới Chân Thầy nói, trong tất cả các đức hạnh thì "Lòng Bác Ái" là quan trong nhất, thiếu nó thì mọi đức tính khác đều bất toàn, không thể đầy đủ.
2- Nghĩa (Không tham lam): Nghĩa (trong "chính nghĩa") là phải cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải. Ứng với Kim trong ngũ hành. Đối với người, đối với sự vật, chúng ta có tận tâm làm tròn nghĩa vụ chưa? Tuy có thù lao, nhưng không xem trọng thù lao mà cho là việc bổn phận của ta. Chúng ta phải tận tâm tận lực làm cho tốt; đây là đạo nghĩa, nhưng không nên xem là trả thù lao. Thù lao nhiều thì tôi làm nhiều, thù lao ít thì tôi làm ít, hạng người này không có nghĩa. Thấy lợi phải luôn nghĩ đến nghĩa, không vì lợi mà quên nghĩa, có quyền lợi chính đáng phải biết nghĩ đến người khác (lộc bất tận hưởng). Người trọng nghĩa khinh tài rất đáng kính.
3- Lễ (Không kiêu mạn): Trong "Cung kính lễ phép", mang tính tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người. Ứng với Hỏa trong ngũ hành. Giữa người với người phải có lễ phép qua lại, gồm rất nhiều thủ tục lớn chào hỏi, lễ khi vào đình chùa, vào nhà mới, cưới xin ....Người hiểu biết và giữ lễ nghi là người có văn hóa.
+ Lòng Sùng tín chánh đạo - Phật Pháp: Đầu tiên là đức tín tâm thành kính kiên cố. Người thường hiếu kính cha mẹ và thầy cô giáo, những vị thiện tri thức. Có lòng thành tin kính và thường lễ lạy Tam bảo , thường niệm hồng danh các đức Phật, Bồ Tát, Thánh hiền, những vị đại thiện tri thức. Luôn là người xem cha mẹ như những vị Phật trong nhà, hết lòng báo hiếu.
Lòng tin tưởng tuyệt đối vào Tam Bảo nghĩa là: Thường ngày tu sửa làm người thiện lành, tu tích phúc đức. Nguyện đem thân mạng giao hết cho Tam bảo - Phật và Bồ Tát, các ngài cho con sống thì con sống, bảo con chết thì con sẵn sàng chết (Đây gọi là lòng tin tuyệt đối_HT Tuyên Hóa khai thị). Được như vậy thì lo gì cầu không được, ước không thấy. Điểm này cực kỳ quan trọng trong pháp tu hành, đặc biệt là các pháp tu niệm Phật, Bồ tát hay Trì chú, đây là các Pháp tu dùng công đức của mình là chính, nhưng không thể thiếu sự bổ trợ mạnh mẽ, nhiệm mầu của tha lực: Tam Bảo - Phật - Bồ tát gia hộ độ trì. Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào đức thầy như thế thì không thể nào có được cảm ứng nhiệm mầu chân thật, theo đó Thần lực không thể tuôn xuống tới người tu để được hóa giải - Tiêu trừ nghiệp trướng, bệnh hoạn không khỏi nhanh được ...
4- Không nghiện ngập: Với người thiện nam - Tín nữ thường là người trí tuệ chưa phát triển hoặc do nghiệp quả nặng lề mà trí tuệ bị che ám trở thành ngu tối, hay quên. Nên chữ TRÍ trong ngũ thường không thuộc thế mạnh của người thiện lành. Họ chỉ cần giữ nghiêm giới không uống riệu - Dùng Sì ke ma túy ..., sẽ làm mê mờ tâm trí, rễ làm việc hồ đồ, điên đảo làm mất lòng nhân, mất uy tín, mất đạo nghĩa.
5- Tín (Chân thật): Tín (trong "uy tín") là phải giữ đúng lời hứa. Ứng với Thổ trong ngũ hành. Là tín dụng, chữ tín rất quan trọng là “không dối mình, không lừa người”. Tự lừa dối mình là lương tâm bị mê muội. Chúng ta thường nghe tục ngữ nói: “Người không có lương tâm”. Người không có lương tâm thì bàn đến chữ tín làm gì? Bên trong lương tâm mê muội; bên ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người khác.
===>>> Như vậy, Luân Thường Đạo Lý theo Pháp Thế Gian cũng không trái với Pháp Xuất Thế Gian mà đức Phật đã dạy, hay nói cách khác, pháp Xuất Thế Gian đã bao gồm Pháp Thế Gian mà không có sự khác biệt hay trống trái nào cả. Đạo Phật luôn bao là rộng lớn phù hợp với mọi hạng người, dù là người ngu tối dốt nát cho đến người trí tuệ siêu vượt ở thế gian đều có thể áp dụng tu hành, và đều có thành tựu dốt giáo như nhau. Đây là sự vĩ đại của Phật giáo - Là Tình thương rộng lớn vô lượng vô biên với sự Bình đẳng tuyệt đối với mọi người không chút phân biệt về tôn giáo, tín ngưỡng, già trẻ, nam nữ, giầu nghèo, sang hèn ....
II- ĐẠO ĐỨC CỦA NGƯỜI THIỆN LÀNH
1- Đạo hiếu:
"Bách thiện hiếu vi tiên: Trong một trăm điều thiện thì đạo hiếu là hàng đầu"
+ Nhận thức đúng: Đạo hiếu là cốt lõi của chữ Nhân, chữ Nhân là gốc của đạo đức - Đạo đức là gốc của đạo làm người.
+ Tu chữ hiếu: Tu đạo hiếu đầu tiên cần tu hành thành tựu "Hiếu thân tôn sư - Phụng sự sư trưởng". Không thành tựu đức hạnh này thì không thể xứng danh: Người thiện lành được.
* Hiếu là cốt lõi của gốc - Tức là gốc của gốc. Không có hiếu với cha mẹ thì những tánh đức khác không thể kiện toàn.
1.3- Các đức tính khác của đạo đức cần thành tựu:
+ Đễ, Trung, Tín là cái thân, cội của đạo làm người. Một người không mấy tốt với anh chị em thì việc làm người của người đó rất có vấn đề. Tận trung đối với gia đình, thành tín đối với cha mẹ thì đây là cái thân, cội của đạo làm người.
+ Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ là cành, nhánh của đạo làm người. (Tứ duy)
1.4- Các đức hạnh mở rộng.
+ Nhân, Ái, Hòa, Bình là thể hiện sự cống hiến (Phụng sự) của một người đối với xã hội, là hoa thơm quả ngọt. (Nguồn: Xem tại đây)
II- ĐỨC HẠNH THEO PHẬT GIÁO
1- Đức hạnh - Giữ Ngũ giới (Ứng Ngũ thường) gồm: SÁT - ĐẠO - DÂM - VỌNG - KHÔNG UỐNG RIỆU
1.1- Sát (Chữ Nhân): Người có lòng Nhân thì không gây tổn hại - Không sát sanh hại vật. Nên ăn chay ít nhiều. Tương ứng giới Không sát sanh.
1.2- Đạo (Chữ Nghĩa): Người trung thực, Trung thành, nghĩa khí, không tham nhũng, trọng tình nghĩa, biết hổ thẹn. Xa lìa tham lam ích kỷ. Tương ứng giới Không trộm cắp.
1.3- Dâm (Chữ Lễ): Trong quan hệ, thấy người thì cung kính sẽ không quan hệ tình ái bất chính. Nên trì giữ cả trong tư tưởng không để Tâm dâm thường khởi, càng không bám chấp, dính mắc vào cảm xúc Dâm dục, vì toàn là hại. Tương ứng giới Không Tà dâm.
1.4- Vọng (Chữ Tín): Giữ khẩu nghiệp, tức thường nói lời chân thật, không nói đâm thọc - Hai lưỡi đôi chiều. Cũng không nên nói ác khẩu khó nghe hoặc nói lời vô nghĩa. Tương ứng giới Không nói dối.
1.5- Không nghiện (Chữ Trí): Uống riệu làm mê mờ trí tuệ, mà con người không có trí tuệ thì chỉ còn thuần là con thú. Con thú thì không biết phân biệt phải trái đúng sai ..., nó chỉ sống thuần cảm xúc - Nóng giận mất khôn, cho nên, người uống riệu nhẹ thì đánh cãi chửi nhau, nặng thì dao búa gậy gộc giết người không ghê tay, khi tỉnh ngộ thì đã quá muộn, bị pháp luật sử tù tội đã đành, theo nghiệp quả thì còn nhiều kiếp tìm giết nhau biết bao giờ dừng như trong Kinh đức Phật dậy. Với Sì ke ma túy ... cũng không khác, thậm trí còn nặng lề hơn do ảo giác phát sinh mạnh mẽ. Tương ứng giới Không nghiện ngập để bảo toàn trí sáng.
3- Đạo hạnh thể hiện:
3.1- Thường Bố thí
3.2- Thường làm lành lánh giữ:
3.3- Phát tâm bồ đề: Tu tứ vô lượng tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả
3.4- Phát nguyện
4- Tu trí tuệ: Muốn tu trí tuệ chánh đạo thì cần nhất là nghiêm trì giới luật - Giữ Ngũ giới, vì Giới sanh Định - Định sanh Tuệ. Người giữ ngũ giới thì thường thích nghe giảng kinh pháp. Lễ lạy đọc tụng kinh chú.
5- Đức hạnh tương ứng ngũ Thường:
- Đạo hiếu: Là đức quan trọng nhất của lòng Nhân từ, được biểu hiện qua bốn chữ "Hiếu thân tôn sư".
- Kính - Lễ: Cung kính - Lễ phép là biểu hiện của lòng biết ơn công sinh thành dưỡng dục như trời biển của Cha Mẹ. Cũng biểu hiện của xa lìa lòng Kiêu Mạn.
PHẦN III
SO SÁNH PHÂN BIỆT NGƯỜI THIỆN ÁC
I- SƠ LƯỢC VỀ PHÂN BIỆT NGƯỜI THIỆN ÁC
* Đạo làm người vô cùng phức tạp, xin tóm lược trích dẫn từ các lời dậy của Thành hiền để mô tả sơ bộ các Đức Hạnh tương ứng mà mỗi loại người cần thành tựu càng nhiều càng tốt.
1- Người thiện lành: Cũng gọi là người Thiện Nam tử - Thiện nữ nhân hay Tín nữ như trong Kinh Phật thường nói. Họ tinh tấn tu đạo đức, họ tu thành tựu ngũ luân và ngũ thường (Chỉ trừ chữ TRÍ trong ngũ thường).
Họ là người có trí tuệ đang phát triển, hạn chế về khả năng học hiểu thấu rõ về giáo lý minh triết. Nhưng họ có Tâm thiện lành bẩm sinh, có lòng sùng tín Phật Pháp mạnh mẽ. Họ thường vâng theo giáo lý tu giữ ngũ giới và hành thiện tích đức, thường làm lành lánh giữ.
Đầu tiên, là họ là tấm gương về hạnh tu hành Bố thí, tức là họ tu Tứ vô lượng tâm gồm Từ - Bi - Hỷ - Xả đúng theo lời Phật dậy. Do có lòng tin sâu sắc vào Tam bảo, Phật và Bồ tát, cho nên họ thường gặp may mắn trong lúc hoạn nạn, đây là kết quả của lòng Tín Tâm Thành Kính chiêu cảm Tam bảo, chư Hộ pháp gia hộ độ trì. Phật Pháp rất nhiệm mầu, ai tu người đó hưởng như trong Kinh Phật thường dạy. Cũng có thể gọi họ là "Người thiện lành - Sùng kính Tam bảo".
Đức hạnh: Họ là những người tuy có đức dầy nhưng thiếu trí tuệ phân biệt chánh tà, rễ xa vào mê tín dị đoan. Trong Kinh thường nói là người Hạ căn - Ngu tối. Họ có nhiều trong số tám đức gốc rễ của đạo làm người: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ. Bốn đức tính khác bổ trợ: Nhân, Ái, Hòa, Bình. Người thiện lành mà kiếp này gặp được Thiện tri thức dạy bảo hướng dẫn tu, đây đều là duyên lành từ tiền kiếp tu đạo hiếu đễ mà có được, rất đáng chân trọng, nên tin kính phụng hành. Nếu không, với người thiếu trí tuệ thì như trong Kinh Hiền Nhân chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can." Thật khó vô cùng vậy.
Tu hành: Họ tin sâu nhân quả. Họ thường: Giữ ngũ giới - Làm lành lánh giữ - Hành bố thí - Tu lễ lạy, niệm Phật, Bồ Tát chăm chỉ - Thường sám hối - Phát nguyện thiện lành - Hồi hướng công đức. Họ tinh tấn, y giáo phụng hành - Làm gương tu chánh đạo cho mọi người.
Vậy lên, họ cần vun bồi lòng tin sâu Tam Bảo - Phật, Bồ Tát thì tu hành vẫn thành tựu, không có trở ngại, đôi khi còn là điểm mạnh (Ví như trong tu thiền định, họ ít chữ, tâm không tán loạn, chẳng kiêu mạn). Điểm yếu trong tu hành là rễ tin người, rễ bị lầm lạc vào con đường tà đạo, rễ bị ngoại đạo dụ giỗ vào đường tà, xa rời đường chánh.
+ Người bất thiện - Ngu si: Họ không có đức hạnh của người thiện lành, họ cũng chưa có trí tuệ phát triển. Họ là người sống thuần theo Dục vọng thấp hèn để lo cho cái Thân Xác giả tạm. Họ thường làm ác mà không biết mình đang làm ác vì thiếu trí phân biệt. Họ thường a dua gần gũi người ác, bị người Bất thiện - Có trí tuệ thâu nạp làm đệ tử để phục vụ cho các lợi ích ích kỷ hại người của họ. Khi họ phải nhận quả báo khổ đau tột cùng thì họ chỉ biết than trời trách người bội bạc mà chẳng biết nhận tội lỗi về mình. Vì người ác thường chỉ biết lo cho mình mà chẳng biết lo cho kẻ khác, vậy nên khi ốm đau hoạn nạn đến họ thường chịu cảnh cô đơn hưu quạnh không bè bạn người thân chăm sóc. Hậu quả của việc sống tham lam ích kỷ hẹp hòi. Sau khi chết thường bị đọa ba đường dữ Địa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh, chịu sự ngu mê, tối tăm mịt mờ.
Như trong Kinh Hiền Nhân chép: "Nói Pháp cho người ngu nghe cũng như nói với kẻ điếc, những ai khó hóa độ thì không thể khuyên can". Thật khó vô cùng vậy. Cho nên, người ngu dốt cần có Phúc đức dầy thì sẽ có cơ gặp được duyên lành, được vị thầy Thiện trí thức giáo hóa, dẫn dắt đi trên đường đạo, không lo sợ lạc lối vào đường tà.
2- Người quân tử: Họ có đủ tánh hạnh của Người thiện lành - Có trí tuệ phát triển nên là người học rộng hiểu nhiều về luân thường đạo lý thuộc Pháp thế gian. Họ có khả năng phân biệt rõ mức độ cát hung tốt xấu lành giữ ... Đây là điểm mạnh của người có trí tuệ phát triển. Họ thường phổ biến giáo lý chánh đạo và giúp đỡ mọi người tu học đạo. Họ thường tinh tấn tu giữ mười giới - Hành thập hiện và tu bát chánh đạo từng bước thành tựu. Họ thường tu phước đức Nhân Thiên. Họ là Người thiện - Có trí tuệ, họ đang vững bước trên con đường đạo sáng lạn. Họ thường không bị đọa lạc ba đường dữ.
Đức hạnh: Họ là những người thiện lành, học cũng có Trí tuệ phát triển đủ khả năng học và hiểu, tin tưởng tuyệt đối vào Nhân quả - Luân hồi. Họ đã giác ngộ chánh pháp, đã xóa bỏ Vô minh. Họ thường là người có duyên lành đã tu từ tiền kiếp, họ rễ tìm gặp được vị thầy Thiện tri thức hướng dẫn tu đạo. Họ là người thượng căn như trong Kinh thường nói. Họ thường hổ thẹn với những lầm lỗi, không tin tấn tu trì của mình, họ là đối tượng giáo hóa của bậc Thiện tri thức như trong Kinh Hiền Nhân chép: "Những ai biết hổ thẹn đều là kẻ rất dễ dạy, rất dễ sách tấn cũng như điều khiển ngựa hay." Con đường thành tựu tu đạo không xa với họ.
Tu hành: Họ tu như người thiền lành nhưng sâu rộng cao hơn nhiều vì có trí tuệ phân biện. Họ thường: Trì giữ nhiều giới luật - Hành thập thiện và bát chánh đạo. Phát Bồ đề tâm rộng lớn. Thường tham thiền và tu Giới Định Tuệ. Khi có kiến thức sâu rộng, họ hộ trì Phật pháp, hướng dẫn mọi người tu hành. Họ thực hành hạnh Bồ Tát đạo. Họ tu phước đức và cũng hướng dẫn nhiều người cùng tu phước đức trời người, hướng đến giải thoát.
+ Người Tiểu nhân: Họ là những người bất thiện - Có trí tuệ theo đường lối tu đạo sai lầm, bỏ gốc theo ngọn (Đạo đức là gốc của đạo làm người). Họ thường có ý chí mạnh mẽ, tham lam ham muốn ích kỷ, chỉ biết lo tranh đoạt quyền lợi về cho mình, gia đình và nhóm của mình. Tình yêu thương - Lòng Bác ái trong họ đang hoàn toàn ngủ yên dù nó vẫn hiện hữu. Họ có thể dụng công nghiền ngẫm, thấu hiểu giáo lý cao siêu để phục vụ cho lòng tham vô đáy của mình. Họ bất chấp Luân Thường Đạo Lý, sẵn sàng "giẫm đạp" nên người khác để mình chiến thắng, để thỏa mãn dục vọng ích kỷ của mình trong những cuộc chiến tranh đoạt vô tận, với nhưng âm mưu gian giối, lừa gạt, dùng bùa mê thuốc lú hại người ..., chẳng có gì họ không giám làm. Họ thường chẳng biết thương sót, mà còn hoan hỷ trên lỗi đau của đồng loại đã bị chính họ làm tổn hại. Loại người này rất đáng sợ, vì Người bất thiện - Ngu si chỉ hại được một vài người, còn người Bất thiện - Có trí tuệ thì họ hại muôn người. Ví như họ phát minh ra bom đạn, hay như khi họ ở vị trí lãnh đạo quần chúng, họ không có Lễ Nghĩa Liêm Sỉ, tham nhũng ngàn tỷ .... Họ chính là người đại ác trong nhân gian. Sau khi chết họ thường lấy địa ngục làm nhà muôn kiếp như lời Phật dạy.
Đức hạnh: Họ có thể là người thiện lành hoặc chưa phải là một người thiện lành. Họ có Thể trí tuệ khá phát triển, là người học rộng hiểu nhiều. Dù là người thiện hay chưa thiện nhưng họ thường bị dục vọng tri phối mạnh mẽ, đặc biệt với người chưa thiện lành, họ thường sử dụng trí tuệ theo bản chất dục vọng thấp hèn thì vô cùng tai hại. Đa số nhân loại đang ở nhóm người này. Điểm yếu là họ tuy học hiểu nhiều nhưng chưa đủ giác ngộ, thường kiêu căng ngạo mạn khi có chút kiến thức hơn người, kết hợp với dục vọng ích kỷ đã trói buộc họ trong "vòng kim cô" thiếu hiểu biết, do đó họ không thể có vị thầy Thiện tri thức được dẫn dắt trên con đường tu hành đầy trông gai và cạm bẫy. Họ thường tu mù luyện tối, rễ lầm lạc đường tà, rễ nhầm lẫn "Bề trên" do Thiên ma quỷ thần giả dạng dẫn dắt, tất cả chỉ vì kiêu mạn, lại không có gốc với đức "Hiếu kính cha mẹ - Phụng sự sư trưởng" và thiếu lòng tin vào Phật Pháp. Như trong Kinh Phật nói "Họ làm ác mà không biết mình đang làm ác, thật đáng thương". Họ chẳng tu theo chánh đạo, thường theo Tham Sân Si dẫn dắt, họ lấy ba đường giữ (Địa ngục - Ngạ quỷ - Súc sinh) làm nhà. Kinh Hiền Nhân dạy: "Được làm người là khó, gặp Phật ra đời là khó, được nghe giáo pháp của Ngài là khó, vâng làm theo được giáo pháp ấy thật là khó.".
Tu hành: Đa số họ không tin nhân quả - Phật pháp, hoặc nửa tin nửa ngờ, tất cả chỉ vì Dục vọng quá lớn làm mê mờ tâm trí. Họ thường: Không giữ ngũ giới - Không hành bố thí - Lợi mình hại người - Theo tà đạo, mê tín dị đoan mong được lợi ích. Hơn nữa, vì họ có trí tuệ hơn người nên rễ thành người đại ác, vì có thể dối lừa hại nhiều người một lúc, rất đáng sợ.
3- Bậc thiện tri thức: Họ đã thành tựu vượt trên các tánh hạnh của Người quân tử. Họ có trí tuệ phân biện sâu rộng về Pháp thế gian và tiến sâu vào tu học Pháp Xuất thế gian. Họ đã thành tựu mười giới luật và bát chánh đạo bước đầu vững chắc. Họ là người bước đầu hộ trì chánh pháp. Họ thường quên mình vì Phật pháp. Họ tu thực hành các hạnh Ba la mật cao sâu mầu nhiệm. Họ hướng đến tu đạo giải thoát luân hồi. Họ thường tinh tấn tham thiền nhập định để tu Giới Định Tuệ ngày càng sâu rộng.
Họ là người thiện lành - Có trí huệ. Họ là những tấm gương sáng trong nhân gian. Họ xứng đáng để người tìm đạo dựa vào học hỏi, thân cận, lễ kính, phụng sự cúng dường. Họ xứng đáng là những vị thầy dẫn đạo cho những người bắt đầu tu đạo.
4- Người đại thiện tri thức: Các ngài đã thành tựu vượt xa các đức hạnh của bậc Thiện tri thức, thường nghiêm trì hàng chục, hàng trăm giới luật nghiêm ngặt, đã tu thành tựu các hạnh Ba la mật, thành tựu tham thiền nhập đại định vững chắc, thành tựu Giới Định Tuệ Ba la mật sâu rộng mầu nhiệm.
Các ngài cũng còn gọi là các Đại Bồ Tát - Đại để tử - Đại Thánh hiền của đức Phật.
5- Tổng hợp các đức hạnh của đạo làm người theo 2 loại: Pháp Thế gian và Pháp Xuất Thế gian
Mỗi Pháp dùng các thuật ngữ khác nhau để mô tả về các đức hạnh cần đạt được theo Đạo làm người, phù hợp với sự tiến hóa của mỗi người.
BẢNG TÓM LƯỢC CÁC THUẬT NGỮ THƯỜNG GỌI CỦA CÁC ĐỨC HẠNH GIỮA CÁC PHÁP TU
STT | Theo đạo đời - Pháp thế gian (Sự sống chủ đạo qua Vật chất và Tín ngưỡng Tâm linh) |
Theo Phật giáo - Minh Triết Khác (Sự sống qua Vật chất và Tinh thần Tâm linh) |
||
Danh gọi | Các đức hạnh căn bản |
Các đức hạnh căn bản |
Danh gọi | |
I |
Người thiện lành hay Người Hiếu thảo |
1- Ngũ thường: Nhân - Nghĩa - Lễ - Tín 2- Ngũ luân: Đạo Vợ chồng - Cha con - Anh em - Bạn bè - Chủ và người làm; 3- Các đức: “Hiếu - Để - Trung - Tín - Lễ - Nghĩa - Liêm - Sỉ (Tám đức). và Nhân - Ái - Hòa - Bình 4- Trí tuệ: Là hạng người không hiểu biết, Người có thể trí tuệ chưa phát triển. Người ít học nhưng có đạo tâm tỏ ngộ, tin sâu nhân quả luân hồi. Tin kính Tam Bảo. Không được uống riệu làm mê mờ tâm trí. |
1- Giữ ngũ giới: Sát - Đạo - Dâm - Vọng - Không riệu; Hoặc cách nói khác về 5 giới: 2- Ngũ luân: Đạo Vợ chồng - Cha con - Anh em - Bạn bè - Chủ và người làm; 3- Các đức: Tâm cung kính, Kiêm tốn, nhẫn lại; Tâm từ bi hay lòng Bác ái; Tâm Hỷ - Xả, thường hành bố thí với Tâm bình đẳng. 4- Trí tuệ: Là hạng người không hiểu biết, Người có thể trí tuệ chưa phát triển nhưng có đạo tâm tỏ ngộ, tin sâu nhân quả luân hồi. Tin kính Tam Bảo. Không được uống riệu làm mê mờ tâm trí. |
Thiện nam hay Thiện nữ; Tín nữ |
II |
Người hiền tài;
|
+ Điểm 1; 2; 3 như trên. Chỉ khác về Trí tuệ như sau: 4- Trí tuệ phân biệt: Họ là người có trí nhớ tốt, học rộng hiểu nhiều về kiến thức qua trường lớp hay qua Tự học giáo lý trong phạm vi đời sống vật chất thế tục. Họ có bản chất thánh thiện là kết quả tích lũy phúc đức từ tiền kiếp, do đó họ có tinh thần phụng sự mọi người với lòng vô kỷ. Họ sống với Tâm Từ Bi Hỷ Xả. Họ tin "Làm lành được phúc - làm ác bị hoại diệt). Thường hành Thập thiện. Họ phát triển trí tuệ qua suy tư nghiền ngẫm số liệu thống kê kinh nghiệm từ thế tục, cũng là một dạng Tham thiền tuệ tri, tuy nhiên, họ không thể hiểu gốc rễ của vấn đề. Họ còn Vô minh. |
+ Điểm 1; 2; 3 như trên. Chỉ khác về Trí tuệ như sau: 4- Trí tuệ phân biện: Là người có trí nhớ tốt, học rộng hiểu nhiều về kiến thức khoa học thực nghiệm về Tâm linh Tinh thần qua tham thiền - Phụng sự. Họ tin sâu Nhân quả - Luân hồi. Họ hiểu Vô minh là gốc luân hồi khổ đau, họ phát triển trí tuệ qua học hiểu thấu Phật Pháp, nghiêm giữ giới luật và tu thiền định để xóa bỏ vô minh. Họ sống với Tâm Từ Bi Hỷ Xả. Thường hành Thập thiện và Bát Chánh đạo => Tu Giới Định Tuệ của hàng Thiện Tri Thức - Hàng Bồ Tát. Họ hiểu thấu Khoa học thế tục, Thuyết tự nhiên và Pháp Duyên Sinh đều không thật. Họ xa lìa vô minh. |
Người đệ tử;
|
III | Thánh hiền; Thánh nhân |
Bồ Tát Đại thiện tri thức |
||
............ | ...................... | .................................................................................... | .................................................................................... | ...................... |
6- Phân biệt Người thiện lành khác với Thiện tri thức - người quân tử:
+ Về đức hạnh: Họ đều có tám đức: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ. Họ cũng thường vun bồi bốn đức tính khác bổ trợ: Nhân, Ái, Hòa, Bình.
+ Về ngũ thường
- Người Thiện lành: Có bốn thường NHÂN (Nhân hậu) - NGHĨA (Chính nghĩa) - LỄ (Lễ phép) - TÍN (Uy tín)
- Người Thiện Tri Thức: Có bốn thường và thêm chữ TRÍ. Với con người, chữ Trí cực kỳ quan trọng.
+ Về ngũ luân: Tùy duyên phận từng người, nhưng tất cả cùng phấn đấu thành tựu.
=> Tóm lại:
+ Người thiện lành là người có ĐỨC DÀY nhưng thiếu TRÍ TUỆ phân biệt. Nhờ có phúc dầy mà họ được hưởng phước lành, vạn sự thuận lợi.
+ Thiện tri thức - Người quân tử: Là người thiện lành nhưng họ có trí tuệ phát triển, họ thường học rộng hiểu sâu và có khả năng phân biệt chánh tà. Nhờ có ý chí mạnh mẽ và trí tuệ phân biện. Họ đã giác ngộ - Xóa bỏ vô minh. Họ có khả năng kiềm chế dục vọng, không chạy theo dục vọng, không để dục vọng chi phối, tác quái như người bình thường.
PHẦN IV
PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH ĐỂ TRỞ THÀNH THIỆN NAM - TIN NỮ
I- Tu hành là gì:
Tu hành là sửa đổi lại Tâm tính và hành vi của mình. Muốn vậy phải thường học và nghe giảng Minh triết - Phật Pháp làm căn cứ để thực hành.
Hành tức là dừng lại những việc xấu ác không làm nữa, thay vào đó tăng cường làm các việc lành, nói những lời lành, chỉ nghĩ tưởng tới điều lành. Tức là thường hành tứ vô lượng tâm: Từ - Bi - Hỷ - Xả trong đối người tiếp vật.
II- Tu Hành Có Bốn Giai Ðoạn:
Hãy coi ngày quy y là ngày sinh nhật.
Cuộc đời tu hành tính từ đó.
Một năm có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Ðó là chuyện hiển nhiên, ai cũng biết. Nhưng quý-vị có biết chăng là đời người cũng phân thành bốn giai đoạn: Sanh, lão, bệnh, tử. Làm người, ai ai cũng chết, nên mình phải tính chuyện về sau mà lo tu Ðạo. Tu hành cũng có bốn giai đoạn, tức là: học, hành, thành, và liễu.
Để thành tựu các giai đoạn này nó phụ thuộc vào nhân duyên tiền kiếp của mỗi người. Có thể đơn vị tính cho mỗi giai đoạn là năm hay đời kiếp. Ví dụ: 5 năm đầu học - 5 năm tiếp theo là hành - 5 năm tiếp theo là thành - 5 năm cuối là liễu. Dài thì có thể mỗi hai mươi năm một giai đoạn. Có câu "Không học mà tu thì chả khác gì tu mù hành tối vậy, chẳng đi đến đâu. (HT Tuyên Hóa giảng).
III- Tu hành để làm gì:
+ Tu để cải mệnh toàn diện. Số mệnh do nhân quả tạo thành, vì thế mà có thể Dự đoán số phận giầu nghèo, sang hèn, thọ yểu, hạnh phúc hay khổ đau ngập tràn ..., nên biết, nó chỉ đúng với người không tu hành cải mệnh, họ xem như chấp nhận số phận an bài, tức là họ thuận theo nghiệp quả họ đã gây tạo và kiếp này họ buộc phải nhận lãnh dù quả tốt hay xấu. Khi bình thường ít bệnh nạn khổ đau thì họ thấy chẳng cần tu để làm gì. Phật pháp có câu "Bồ Tát sợ nhân - Chúng sinh sợ quả". Vậy nên, khi nhưng ngày tháng êm đẹp đã qua thì bệnh nạn và khổ đau sẽ đến, mức nặng nhẹ tùy thuộc vào nghiệp mỗi người đã gieo trong quá khứ. Khi đó họ mới phần nào thấu hiểu lỗi sợ nghiệp quả mang đến khổ đau tột cùng mình phải gánh chịu, nhiều khi vượt quá sức chịu đựng, họ chỉ biết than trời trách người nếu họ không hiểu và tin nhân quả báo ứng. Nhưng than trách chỉ làm cho tình trạng nặng nề hơn và kéo dài hơn mà thôi. Đây là lúc họ nên tu hành để hóa giải và tiêu trừ nghiệp quả, chậm còn hơn không. Đức Phật nói "Quay đầu là bờ", không bao giờ là muộn cả.
=> Tu hành cải mệnh để hóa giải - Tiêu trừ nghiệp chướng để có cuộc sống an nhiên tự tại hơn, giầu có hạnh phúc hơn, mạnh khỏe thọ mạng hơn, phúc đức sâu dầy, con cái ngoan hiền ... Người tu hành đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ thì số mệnh không còn là định mệnh nữa, vì người đó đã cải mệnh hoàn toàn, do được Tam Bảo, chư Phật, Bồ tát gia hộ độ trì giúp hóa giải và tiêu trừ nghiệp chướng. Phật Pháp nhiệm mầu.
IV- Đối Tượng Tu hành:
1- Người không thể tu: ... Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Chúng sanh thấy Phật chẳng lạy, nghe Pháp chẳng tin, gặp Tăng chẳng kính, hủy báng người lành, phá người ăn chay giữ giới. Chẳng tin nhân quả, khinh dẻ thánh hiền, hay tin tà quỷ, tạo nghiệp mãi mãi chẳng tu một chút lành; những người như vậy sau bị những quả báo chi?
Đức Phật nói: Những chúng sanh đó đều đủ tà kiến, hiện đời chẳng tin Tam Bảo giáo hóa, sau chết quyết đọa tam đồ, chịu các khổ não lớn, cầu thoát ra chẳng đặng, dầu cho có ngàn Phật ra đời cũng không thể cứu độ đặng.
* Họ là người Vô minh: Nguyên nhân chủ yếu là họ cứ khăng khăng nhận cái Phàm ngã - Thân xác này chính là họ, mà thân xác do Tứ đại làm thành, bản chất của nó là âm, là hút vào, tức là bản chất tham lam ham muốn với lòng ích kỷ hẹp hòi chỉ lo cho mình và gia đình. Khẩu hiệu của họ là sống và thụ hưởng nhiều nhất có thể, bởi họ nghĩ chết là hết. Họ chỉ biết tranh giành sao cho mình có lợi, thường ít để ý đến thiệt hại của người khác, nhiều khi bất chấp luân thường đạo lý. Cũng bởi họ cứ tin vào tà kiến là không có Nhân quả - Luân hồi. Họ tin chết là hết cho nên mới sống trong si mê điên đảo như vậy như trong kinh thường nói: Họ cứ lấy Địa ngục là nơi ở lâu dài, thế gian này là nhà trọ => Không thể xứng danh người thiện lành được, nói chi đến là người quân tử.
2- Người ngu dốt vẫn có thể tu: ... Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Có kẻ trai lành, gái tín căn tánh chậm tối (Ngu si, dốt nát, hay quên ...), trong lòng không tỏ sáng, cái công phu chưa rồi làm sao đặng độ người?
Phật nói: Căn lành tuy chậm tối mà có tín tâm bền chặt chân thật không bỏ trai giới, thường thường phát nguyện sám hối cái tội trước chẳng dám sai lầm, đến chừng tai nạn nghiệp chướng tan hết, lòng nguyện đủ rồi thì huệ tánh phát ra hiện tiền và đặng sáng suốt, tỏ ngộ thấy đặng mình và đặng thành Phật.
* Họ cũng thuộc dạng người vô minh vì không có khả năng học hiểu giáo lý, họ có thể là người ít chữ hoặc không biết chữ, họ chỉ học hỏi một cách thụ động vì họ có duyên lành từ tiền kiếp, họ sẽ gặp được vị thầy Đại Thiện tri thức giáo hóa và họ có lòng tin sâu Nhân quả - Luân hồi. Thì họ thường sống và phấn đấu trở thành người thiện lành, họ thường hành bố thí - Giữ ngũ giới ...như lời Phật dậy không dám phạm vì biết sợ quả báo ác đến. Họ cũng ăn chay, sám hối, phát nguyện, Quy y Tam bảo và kiên trì tinh tấn tu hành thì chắc chắn có thành tựu như đức Phật đã dạy. Họ tuy là người trí tuệ chưa phát triển, thường sống không thuận theo Dục vọng. Nếu họ tu tinh tấn chắc chắn sẽ có thành tựu như đức Phật dậy. Có thể gọi đây là thuộc nhóm người cảm dục - Người độn căn hay người trí cảm - Căn tánh thấp - Người hạ căn.
3- Người bình thường tu: Họ là đa số trong nhân loại hiện nay, họ là người Trí cảm - Là người vẫn bị Dục vọng tức Tham Sân Si chi phối là chính. Những người này trong Kinh Phật thường gọi là người trung căn. Họ có thể trí tuệ chưa đủ phát triển để có thể làm chủ tâm trí. Họ thường có mục đích sống là học hỏi - Làm việc quên mình để chăm lo đáp ứng các nhu cầu căn bản của đời sống cá nhân và gia đình, sinh con đẻ cái để duy trì giống nòi. Họ có thể thụ động trong học hỏi giáo lý, hoặc nếu có học cũng khó có khả năng phân biệt các Pháp chánh tà - Chân giả, là vì tâm trí của họ chỉ tập trung mãnh liệt vào Dục vọng - Nhu cầu vật chất của đời sống thường nhật. Đối với Nhân quả - Luân hồi họ chẳng tin hoặc nửa tin nửa ngờ. Đây chính là sự tai hại của giai đoạn trí tuệ đang phát triển để thoát ly khỏi các ham muốn của dục vọng thấp hèn. Nhóm này có hai dạng người có thể tu:
a- Người không tin nhân quả - Luân hồi: Không thể tu. Họ cũng chẳng nghe lời hay lẽ phải. Những người này cũng rất khó, thường không có cách gì để mà góp ý cho họ hiểu. Họ sẽ phải trải qua đau khổ và diệt trừ đau khổ trong nhiều kiếp sống để có thể giác ngộ.
b- Người nửa tin nửa ngờ về Nhân quả - Luân hồi:
- Người có lòng sùng tín: Nếu họ có nhân duyên gặp được thần tượng là nghe giảng Pháp của các vị Thánh hiền đắc đạo, thì họ sẽ trở thành người thiện lành nhờ vào giáo lý chánh đạo, họ sẽ nhanh tin vào Nhân quả - Luân hồi, tin vào Phật pháp qua các bậc Thánh hiền giảng dạy, cho dù họ không có khả năng học và hiểu thấu giáo lý. Nhờ đó họ sớm trở thành người thiện lành. Nhưng ngược lại, họ cũng rất rễ tin vào tà pháp ngoại đạo, là vì họ chưa có trí tuệ để phân biện, điều này rất nguy hiểm, cần được cảnh báo qua những người thiện lành hành Bồ Tát đạo góp ý, chỉ bảo giúp đỡ.
- Người có thiện căn tiền kiếp: Nhờ nhân duyên lành từ tiền kiếp, khi thời gian đến họ bỗng gặp được giáo lý chánh đạo hoặc có duyên nghe được Thánh hiền giảng đạo mà trong tiền kiếp họ đã từng tu học, họ sẽ bị cuốn hút vào đó, giần đam mê nếu nhân duyên đó đủ lớn. Người như thế cũng có thể tu và gặt hái thành tựu. Nhóm người này tuy không có lòng sùng tín, nhưng họ cũng rễ bị lạc lối vào tà đạo bởi vì trí tuệ phân biện chưa đủ, họ luôn sống trong nghi ngờ với cả Pháp chánh đạo - Phật pháp. Một điểm rất đáng quan ngại nữa, nó phát sinh bở bản chất của Thể trí con người, đo là tánh Kiêu căng ngạo mạn. Tuy học hiểu giáo lý chưa được là bao, cũng chưa thể thấu hiểu giáo lý sâu rộng mầu nhiệm thế nào, thế nhưng họ thường xem kiến thức họ là nhất, đặc biệt khinh thường ra mặt kể thường nhân ngu si. Đức Phật dậy, người trí cần giác ngộ điều này, xa lìa ngu si tà kiến - Kiêu mạn.
4- Người ác hay đại ác tu: Đức phật dậy "QUAY ĐẦU LÀ BỜ". Trong Kinh Phật có câu truyện, Angulimàla là một tên cướp khét tiếng, đã giết hại rất nhiều người, nhưng nghe lời giáo hóa của đức Phật, đã từ bỏ đường ác, quay về đường chánh, tinh tấn tu hành vẫn thành tựu đạo quả viên mãn. Cho nên tu là hồi đầu, phát nguyện sửa đổi lỗi lầm đã phạm và từ bỏ hoàn toàn nghiệp ác, không bao giờ tái phạm. Trước Tam bảo phát lồ sám hối, tích cực giữ nghiêm giới luật, hành thập thiện và bát chánh đạo ... => Thành tự các pháp này chính là người chân thật là tu hành, chắc chắn xứng với danh Thiện nam - Tín nữ. Chắc chắn sẽ thành tựu đạo quả. (Xem: Angulimàla - Người đại ác thành tựu bậc Thánh )
+ HỎI : Nếu như có người làm nghề giết gà, giết vịt để sinh sống, chúng ta nên có pháp môn phương tiện nào để khuyên giải họ không ?.
ĐÁP : Nếu lúc trước làm chuyện lầm lỗi, khi biết ra là sai quấy thì con nên sửa đổi. Cho nên bảo là : "Quá năng cái, quy ư vô", nghĩa là biết sai mà chịu sửa thì xem như vô tội. (HT Tuyên Hóa khai thị)
5- Người thượng căn - Trí tuệ phát triển tu: Giáo lý nói rằng, hạng người này có một thuận lợi lớn, bởi họ thông minh, nhớ lâu, có trí phân biện ... học nhanh giác ngộ. Điểm yếu là rễ phát triển tánh "Kiêu căng ngạo mạn", dẫn đến "Học mà không hành", nếu không khắc phục được các điểm yếu này thì xem như bị "Vòng kim cô" như đám mây mờ năn cách tâm trí, họ ít có cơ hội gặp Thiện tri thức - Những vị Thầy đắc đạo đáng kính để có thể học hỏi được nhiều kiến thức cao thâm, vì cơ hội gần Thiện tri thức tự mình đánh mất đi. Hơn nữa, họ học mà không hành chẳng khác chi chỉ nhìn mâm cỗ mà chẳng thật ăn => Chẳng biết hương vị ngon ngọt, bụng thì vẫn đói. Đức Phật dạy, tu hành như người uống nước - Nóng lạnh tự biết. (Nguồn: Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận)
V- NGƯỜI THIỆN NAM - TÍN NỮ TU HÀNH.
1- Tu chữ hiếu: Người thường hiếu kính cha mẹ và thầy cô giáo, những vị thiện tri thức. Có lòng thành tin kính và thường lễ lạy Tam bảo , thường niệm hồng danh các đức Phật, Bồ Tát, Thánh hiền, những vị đại thiện tri thức. Luôn là người xem cha mẹ như những vị Phật trong nhà, hết lòng báo hiếu.
Lòng tin tưởng tuyệt đối vào Tam Bảo nghĩa là: Thường ngày tu sửa làm người thiện lành, tu tích phúc đức. Nguyện đem thân mạng giao hết cho Tam bảo - Phật và Bồ Tát, các ngài cho con sống thì con sống, bảo con chết thì con sẵn sàng chết (Đây gọi là lòng tin tuyệt đối_HT Tuyên Hóa khai thị). Được như vậy thì lo gì cầu không được, ước không thấy. Điểm này cực kỳ quan trọng trong pháp tu hành, đặc biệt là các pháp tu niệm Phật, Bồ tát hay Trì chú, đây là các Pháp tu dùng công đức của mình là chính, nhưng không thể thiếu sự bổ trợ mạnh mẽ, nhiệm mầu của tha lực: Tam Bảo - Phật - Bồ tát gia hộ độ trì. Nếu không tin tưởng tuyệt đối vào đức thầy như thế thì không thể nào có được cảm ứng nhiệm mầu chân thật, theo đó Thần lực không thể tuôn xuống tới người tu để được hóa giải - Tiêu trừ nghiệp trướng, bệnh hoạn không khỏi nhanh được ...
+ Thường hành bố thí: Bố thí tài - Bố thí pháp - Bố thí vô úy tùy theo sức của mình như lời Phật dậy.
+ Tu hành - Thường giữ ngũ giới: Không sát sanh - Không trộm cắp - Không tà dâm - Không nói dối - Không uống riệu.
Họ tin sâu nhân quả. Họ thường: Hành bố thí - Giữ ngũ giới - Làm lành lánh giữ - Tu lễ lạy, niệm Phật, Bồ Tát chăm chỉ - Thường sám hối - Phát nguyện thiện lành - Hồi hướng công đức. Họ tinh tấn, y giáo phụng hành - Làm gương tu chánh đạo cho mọi người.
Người thiện lành mà kiếp này gặp được Thiện tri thức dạy bảo hướng dẫn tu, đây đều là duyên lành từ tiền kiếp tu đạo hiếu đễ mà có được, rất đáng chân trọng, nên tin kính phụng hành.
+ Tu Thân Khẩu Ý:
- Đức độ thuộc thân xác:
1) Bảo vệ sự sống của muôn loài,
2) Thực thi sự rộng lượng và hào phóng,
3) Ý thức trong cuộc sống tình dục, không gây ra khổ đau.
- Đức độ thuộc ngôn từ:
4) Nói lên sự thực,
5) Nói những lời hoà giải, tạo sự thân thiện và giảng hoà,
6) Ăn nói nhỏ nhẹ,
7) Tụng niệm kinh điển.
- Đức độ thuộc tâm thức:
8) Biết hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác,
9) Từ tâm và thương người,
10) Duy trì những quan điểm đúng đắn.
+ Người thiện lành thường ngày tu hành:
- Tu “Tâm từ” để chẳng khởi phiền não, làm hại.
- Tu “Tâm bi” để thương yêu các chúng sinh.
- Tu “Tâm hỷ” để diệt trừ tâm ganh ghét đố kị.
- Tu “Tâm xả” để được tĩnh tại, không yêu ghét...
- Tu “Nhẫn nhục” để có đầy đủ các tướng tốt.
- Tu “Tinh tấn” để phá trừ ma oán, sớm thành Phật.
* Người quân tử còn thêm các hạnh
- Tu “Thiền định” nên có thể sinh khởi pháp lành.
- Tu “Trí tuệ” để dứt bỏ vọng kiến phân biệt. Xóa bỏ vô minh, xa lìa tà kiến.
8- LỜI PHẬT DẠY VỀ SỰ NHÌN THẤU ĐỂ CÓ MỘT CUỘC SỐNG HẠNH PHÚC
- KHÔNG TRANH CHẤP LÀ TỪ BI
- KHÔNG TRANH LUẬN LÀ TRÍ TUỆ
- KHÔNG NGHE THẤY LÀ SỰ THANH TỊNH
- KHÔNG QUAN SÁT LÀ SỰ TỰ TẠI
- KHÔNG THAM LAM LÀ BỐ THÍ
- BỎ ÁC LÀ CÁI THIỆN
- SỬA ĐỔI BẢN THÂN LÀ SÁM HỐI
- NHÚN NHƯỜNG CHÍNH LÀ LỄ PHẬT
- THA THỨ LÀ GIẢI THOÁT
- BIẾT ĐỦ CHÍNH LÀ BIẾT BUÔNG BỎ
- LỢI CỦA MỌI NGƯỜI CHÍNH LÀ CÁI LỢI CỦA BẢN THÂN.
* NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
VI- CÁC GIÁO LÝ TU HÀNH ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI THIỆN NAM - TÍN NỮ
1- Lục Đại Tông Chỉ: Hòa Thượng Tuyên Hóa có sáu đại tông chỉ gồm Không Tranh - Không Tham - Không cầu - Không ích kỷ - Không Tự Lợi - Không Vọng Ngữ. Sáu điểm này ngài dạy cũng tương tự giữ Ngũ giới không khác.
2- Các giáo lý để thực hành các 12 Đức hạnh:
- Đức Hạnh: Đức Phật dậy về 10 Thiện nghiệp (Ngũ thường) rất rễ học hiểu.
Mời đọc: Kinh Thập thiện ; Mời đọc: Đệ Tử Quy rất tuyệt diệu
- Đạo Nhân: Đức Phật dậy về quan hệ giao tiếp (Ngũ luân) rất đầy đủ minh triết.
Mời đọc: Kinh Thiện Sinh; Mời đọc: Kinh tương ưn bộ
- Phát triển trí tuệ phân biện: Các phẩm tính của Người trí được đức Phật giảng rất sâu sắc.
Mời đọc: Kinh Hiền Nhân;
- Sách giành cho người chí nguyện chuẩn bị bước vào đường đạo, giành cho người có trí tuệ phát triển:
Mời xem: Sách Dưới Chân Thầy
- Giành cho những người tu đạo xuất thế gian còn có kiến thức Bát Chánh Đạo và rất nhiều phẩm trợ đạo khác.
PHẦN IV
BẬC THIỆN TRI THỨC - ĐẠI THIỆN TRI THỨC
(Những vị Thầy đáng kính chúng ta cần theo học)
1- Bậc Thiện tri thức: Trích Bồ tát Văn Thù sư Lợi hỏi Phật: Hành trì làm sao tên là thiện trí thức?
Đức Phật nói: Thiện trí thức tâm tánh mềm mỏng hòa nhã, giới hạnh tinh chuyên, lòng không tham lam tật đố, không ái luyến vật chất, tâm thường bình đẳng, ý không thương ghét. Có đại phương tiện độ mình độ người, tùy theo căn tánh cũa mỗi người mà giáo hóa, đủ pháp tổng trì. Lòng tốt đối với người, làm ơn cho người chẳng cần trả, tu hành trong sạch, không có lỗi lầm, thuyết pháp luận nghĩa đều hiệp ý kinh. Người nào đầy đủ mấy việc này là thiện trí thức.
2- Đại Thiện tri thức: Nếu có trí tuệ hơn người, phước đức siêu quần, không chỗ nào chẳng lành, không pháp nào chẳng biết. Làm tai mắt cho cõi người cõi trời, là rường cột trong Phật pháp, cầm cái cân trong Phật Tổ, làm lãnh tụ trong pháp môn. Mở cửa chánh đạo, ngăn dẹp đường tà, nối thành dòng Phật, trồng trí huệ thơm khắp, lấy tâm ấn tâm lưu truyền chẳng dứt. Căn cơ lớn, diệu dụng lớn, hạnh nguyện lớn, uy lực lớn. Đây gọi là đại thiện trí thức chân chánh.(Nguồn: Kinh Đại Thừa Kim Cang Luận)
3- Các hạnh tốt bực đại hiền (Đại Thiện tri thức) có mười hai hạnh tốt:
1. Một là học rộng hiểu nhiều;
2. Hai là không phạm giới luật trong kinh dạy;
3. Ba là kính thờ Tam Bảo;
4. Bốn là thọ lãnh pháp lành không quên;
5. Năm là kiềm chế được tham sân si;
6. Sáu là tu tập được pháp tứ đẳng tâm;
7. Bảy là ưa làm việc ân đức;
8. Tám là không nhiễu hại chúng sanh;
9. Chín là hay hóa độ được người bất nghĩa;
10. Mười là không lầm lộn việc lành việc ác.
Kinh dạy: "Gặp được bực đại hiền rất khó - Như ít có lắm vậy - Các bực ấy ở đâu thì bà con quyến thuộc và người chung quanh đều được nhờ cậy." (Nguồn: Kinh Hiền Nhân)
2- Danh sách những vị thầy Thiện tri thức tin cậy - Những đại đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni chân chánh hộ trì chánh pháp.
- Pháp sư Tịnh Không: Tấm gương tu thành tựu pháp Niệm Phật Ba la mật - Tương lai cầm chắc vãng sanh Tây Phương Cực lạc, tùy thời mà đi.
- Đức Đại Lai Lạt Ma: Ngài là bậc Thiện Tri Thức - Vị Bồ Tát giữa đời thường, có trí huệ viên mãn được cả giới tu hành và giới khoa học kính trọng.
- Thiền sư Thích Nhất Hạnh: Ngài là bậc Thiện tri thức nổi tiếng thế giới, đã đưa Phật giáo hòa nhập vào đời sống của người Tây phương.
- Sư cô Hương Nhũ: Giảng Kinh Thuyết Pháp rất gần gũi, ngôn từ rễ nghe, rễ hiểu, rễ học, rễ thực hành để mang lại lợi ích thiết thực trong đời sống.
- Cố HT Tuyên Hóa: Vị Hóa thân Bồ Tát Quán Thế Âm, thành tựu viên mãn Thần Chú Lăng Nghiêm và Chú Đại Bi nhiệm mầu. Hiện các đệ tử của ngài đang tiếp tục con đường của ngài. Đây là nơi tin cậy mà những ai muốn tu hành chuyên sâu và thành tựu các Ấn pháp của các Thần Chú Lăng Nghiệm và Chú Đại Bi. Nếu quí vị đã là Thiện nam tử - Thiện nữ nhân thì đây là nơi quí vị có thể được truyền thừa các mật chú và hành trì ấn pháp vi diệu nhiệm mầu.
3- Danh sách vài chùa đặc thù cần biết:
- Chùa Vạn Phật Thánh Thành: Ai muốn tu thành tựu viên mãn Thần Chú Đại Bi và Thần Chú Lăng Nghiêm, đây là các pháp tu Mật tông cần được truyền thừa. Đến đây chúng ta có cơ duyên được tu hành viên mãn các pháp này.
- Chùa Phước Hưng - Tỉnh Vĩnh Long: Sư Thầy Thích Minh Hòa tu Thần Chú Đại Bi và chữa bệnh miễn phí. Mọi người tham khảo.
PHẦN VI - TU HÀNH ĐÚNG NHƯ PHÁP THỌ TRÌ
ĐỂ CÓ THÀNH TỰU NHIỆM MẦU LÀ CỰC KỲ QUAN TRỌNG
1- Tu hành bắt đầu: Khởi đầu đường tu, điều đầu tiên của “Tam Phước” là “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”, đây là gốc, không tu chân thật thì không thể tiến bước trên đường đạo. (Nguồn: Xem tại đây)
2- Thứ lớp trong tu hành: Phật đối với Bồ-tát nói 6 điều nguyên tắc tu hành này là có thứ lớp, dứt khoát không được đảo lộn. Điều thứ nhất là bố thí, là dạy bạn buông xả. Nếu bạn không thể buông xả thì bạn sẽ không giữ luật nghi (giữ luật nghi là trì giới). Bạn không thể giữ luật nghi thì bạn chắc chắn không thể nhẫn nhục. Bạn không thể nhẫn nhục thì bạn chắc chắn sẽ không có tiến bộ (tiến bộ là tinh tấn). Không có tiến bộ thì làm sao có thể đắc thiền định? (Kinh TTNĐ_PS Tịnh Không giảng)
3- NGÀN VẠN PHẦN CHỚ NGHĨ RẰNG MỖI NGÀY NIỆM MẤY BỘ KINH CHÍNH LÀ TU HÀNH, còn cảm thấy là mình tu hành khá lắm! Khi chẳng niệm kinh thì tâm không kiêu ngạo, niệm kinh rồi bèn tưởng mình là ghê gớm lắm. Tôi có thể thuộc lòng kinh Vô Lượng Thọ, mấy người còn thua tôi xa lắc! Như vậy là quý vị không niệm kinh thì không có phiền não đó, chẳng tạo tội nghiệp; sau khi quý vị thuộc kinh nhuần nhuyễn rồi, hằng ngày sanh phiền não, tạo tội nghiệp khắp mọi chỗ, đều là do hiểu lầm nghĩa chân thật của Như Lai. (Xem: PS Tịnh Không giảng về Tu hành)
4- Những công việc thường ngày cần tu hành thành tựu
+ Như pháp tu hành: Như pháp có nghĩa là làm đúng theo sự chỉ dẫn, đúng với chân lý, đúng với giới luật, hợp với đạo đức nhân nghĩa ... không bao giờ có cái mình, cái tôi, cái bản ngã ích kỷ, phân biệt, chia rẽ xen vào => Đây tức là chúng ta phải tinh tấn tu để xứng danh "THIỆN NAM - TÍN NỮ". Dưới đây là các yếu tố để tu chắc chắn thành tựu đạo của Người Quân Tử. Chắc chắn được hưởng quả ngọt gọi là "Phật Pháp nhiệm mầu - Cầu được ước thấy".
- Xóa bỏ Vô minh: Học hiểu giáo lý, thường nghe giảng Pháp để giác ngộ, từ đó tin sâu nhân quả - Luân hồi với tâm bất thối chuyển - Không chút nghi ngờ.
- Tín tâm thành kính: Có tín tâm thành kính tin tưởng tuyệt đối vào Tam Bảo, với đức Phật Thích Ca mâu Ni, các Bồ Tát, các Thánh tăng hay Thiện tri thức. Thường ca ngợi đức Phật và Thánh hiền.
- Phát nguyện hồi đầu tu hành: các việc xấu ác đã làm dừng lại, xa lìa và không bao giờ tái phạm các giới luật đã phát nguyện trì giữ. Có thể phát nguyện là giữ nghiêm ba giới, năm giới, mười giới hay nhiều hơn.
- Phát lồ sám hối: Thường trước Tam Bảo - Phật hay Bồ Tát - Bậc Thiện tri thức - Nhà sư chân chánh sám hối tội lỗi và hứa từ đó không bao giờ tái phạm nữa.
- Phát tâm bồ đề: Phát tâm Từ Bi Hỷ Xả. Tình thương bình đẳng - Lăng giúp đỡ chúng sinh - Vui với thành tựu của người khác - Xả bỏ vạn duyên xấu ác đến với mình, không để trong tâm.
- Tu không gián đoạn: Đức Phật dậy, điểm then chốt là cần đều đặn hàng ngày không gián đoạn, như giọt nước có thể bào mòn đá vậy.
- Thanh luyện Thân Tâm: Hàng ngày nghiêm trì giới luật - ăn chay ít nhiều - Thường làm lành lánh giữ - Năng thực hành bố thí. Tham thiền tuệ tri sửa đổi Tâm tánh mạnh mẽ như đức Phật dậy.
- Hồi hướng công đức: Hàng ngày tu tinh tấn để có công đức hồi hướng khắp tất cả nhằm hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng và oan gia trái chủ.
- Chọn pháp tu phù hợp căn cơ: Mối người mỗi tính cách, theo đó mỗi người nhường như có một cách tu hành thích hợp nhất để tu trì, giúp tiến nhanh trên con đường đạo. Điều này thường cần có vị đại Thiện Tri thức chỉ cho mới biết được, quả thực rất khó trong thời mạt pháp này. Ví dụ vài pháp tu phổ biến, phù hợp đã số căn cơ chúng sinh như niệm Phật, Bồ tát. Thực hành bố thí. Lễ lạy đọc tụng Kinh Chú. Tham thiền và tu Thiền định. Không nên tu theo pháp của tà đạo, ngoại đạo.
+ Pháp thanh luyện thân tâm
1- Sửa tâm Tham: Thì hãy chuyển đổi sự ham muốn vào những thức ăn tinh thần, hay ham muốn làm việc phước thiện thay vì đi tìm cung ứng thức ăn cho ngũ quan.
2- Sửa tâm Sân: Thì cố gắng làm sao lúc về già con cháu đừng xa lánh, hay lúc gần chết, tâm sân đừng phát khởi, để đưa mình vào 4 cõi sống bất hạnh.
3- Sửa tâm Si: Thì phải cố gắng học hỏi hơn người, người ta học 1 thì mình phải học 10 để có một hiểu biết sâu rộng và cái nhìn chân xác về thực tại; Ráng ngủ ít lại và tập luyện cho tâm nhiều tỉnh giác.
4- Sửa tâm Tín: Thì phải nên rèn luyện chánh kiến và sự hiểu biết sâu rộng để khỏi rơi vào tình trạng hoài nghi hay dễ tin.
5- Sửa tâm Minh: Thì nên đem tài năng và đức độ để phục vụ con người. Thay vì dùng sự thông minh của mình để đi đè bẹp người.
6- Sửa tâm Tầm: Thì nên giới hạn sự tìm hiểu, tò mò của mình vào những địa hạt có lợi ích thực tiễn, thay vì tò mò soi mói chuyện người khác hoặc những chuyện vô bổ. (Nguồn: Nghiên cứu Tâm Tánh)
5- Người học Phật có hai hạng nhất định có thành tựu:
a) Một là người thông minh phi thường, nhà Phật thường gọi là “thượng căn lợi trí”. Hạng người này vừa nghe Phật pháp, giác ngộ ngay lập tức. Sau đó bèn chân chánh y giáo phụng hành, hạng người như vậy nhất định có thể thành tựu.
b) Hai là “thiện căn sâu dày”. Hạng người đối với những lời giáo huấn của Phật, Bồ Tát bèn nỗ lực vâng làm, họ chẳng cần biết đến lý luận, cứ dựa theo lời chỉ dạy của Phật mà làm theo. Hạng người chân thật như thế có thể thành tựu.(Nguồn: Tu Thanh Tịnh Tâm)
IV- Tìm chọn giáo lý - Kinh Phật:
1- Thường xuyên học và hành theo giáo lý của Thành hiền dạy:
+ Bác Hồ dạy chúng ta: Như lời Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng, ai ai cũng biết, nhưng hết đời chưa có mấy ai làm được nhiều, bởi cuộc sống trong xã hội, trong gia đình và nhà trường đều là những tấm gương tranh đua giành dật, dối trá ...:. Như hiện nay so với lời dạy của Bác thì xã hội toàn đạo đức xuống cấp. Người tu cần kiên trì thật hành thành tựu các đức tính làm người thiện lành. Lời Bác dạy ai ai cũng nhớ:
Yêu tổ quốc - Yêu đồng bào
Học tập tốt - Lao động tốt
Đoàn kết tốt - Kỷ luật tốt
Giữ gìn vệ sinh thật tốt
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.
"Nhiều điều mà đứa trẻ lên bảy tuổi biết, nhưng người bảy mươi tuổi vẫn chưa làm chọn!"
+ Ngoài ra, còn nhiều lời dạy đạo làm người rất sâu sắc mà bác Hồ đã dạy, nhưng nếu quan sát thì thật không mấy ai chịu học và làm theo lời dạy của người. Ví như:
- Những lời dạy với "Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước.
- Những lời dạy với "Chiến sỹ công an nhân dân"
- Những lời dạy với "Chiến sỹ quân đội nhân dân"
+ Tìm hiểu đạo làm người: Theo quan điểm của Đạo nho.
+ Thực hành hạnh giao tiếp: Đức Phật dậy trong Kinh Hiền Nhân.
+ Rèn đức tính: Đức Phật dậy trong Kinh Thập Thiện Nghiệm Đạo. Xem tóm lược: Mời xem tại đây
+ Đức Phật dạy: Vô minh là nguồn gốc của luân hồi khổ đau. Muốn xóa bỏ vô minh thì phải học hiểu giáo lý minh triết và Phật pháp mà Thánh hiền đã dạy. Mời xem tại đây
2- Giác ngộ tức là người tin sâu nhân quả và Luân hồi:
Thường xuyên học, nghe giảng Phật pháp để vun bồi tâm tin sâu Nhân quả - Luân hồi với lòng tin bất thối chuyển, từ đó sống cuộc đời an nhiên tự tại, dù cho vạn sự sảy đến vì thấu hiểu đều là lỗi nơi mình, xả ly tâm oán trời trách người ngay từ khi nó mới khởi lên theo bản năng (Nếu có), luôn chấp nhận với tâm nhẫn lại, đồng thời lỗ lực tu đạo, làm việc thiện, hành bố thí, lễ lạy đọc tụng Kinh Chú để hóa giải, tiêu trừ nghiệp chướng cho mình và người thân.
+ Nhân quả - Số mệnh: Mời đọc Sách tổng hợp về Nhân quả - Số mệnh Thánh hiền dạy: Xem tại đây
+ Linh hồn luân hồi: Bài viết trích lời Thánh hiền dạy về Linh hồn đầu thai - Tái sanh trả nghiệp, mời xem chi tiết tại đây
III- Tài liệu bổ trợ tu:
+ Mời đọc sách tổng hợp những lời dạy của Thánh hiền về: Nghệ thuật sống của người quân tử
+ Mời đọc sách Thánh hiền dạy cách lễ lạy đọc tụng và trì niệm hồng danh Phật, Bồ Tát đúng NHƯ PHÁP THỌ TRÌ. Xin mời đọc tại đây
+ Mời đọc sách Thánh hiền dạy cách thanh luyện thân tâm, nhận biết và buông xả phiền lão khổ đau như buồn nản, chán chường, khổ đau, bệnh tật, chia ly ... gây ra. Nếu biết cách ứng sử thì sẽ có cuộc sống an nhiên tự tại, nhẫn lại trong hiểu biết xâu xa về nghiệp quả và kiên trì thực hành cách hóa giải khổ đau, bệnh nạn ... để giảm nhẹ, tiêu trừ nhanh nghiệp quả báo ứng. Mời Xem tại đây
Mời xem hướng dẫn cách tu hành NHƯ PHÁP THỌ TRÌ để có thành tựu, cảm ứng nhiệm mầu chắc thật: Xem tại đây
PHẦN VII
PHÁP TU NIỆM HỒNG DANH PHẬT - BỒ TÁT VÔ CÙNG NHIỆM MẦU
I- Niệm Nam Mô Bồ Tát Quán Thế Âm: Tín tâm thành kính. Lễ lạy đọc tụng Kinh Chú và niệm hồng danh Phật, Bồ Tát. Thực hành đúng "NHƯ PHÁP THỌ TRÌ" để hóa giải và tiêu trừ vô lượng nghiệp xấu ác, được vô lượng công đức, phước đức. Ví như chữa lành bệnh hiểm nghèo, bệnh do côn trùng độc hại, bệnh do quỷ thần gây ra ... đảm bảo chắc chắn giúp CẢI MỆNH mạnh mẽ và nhiệm mầu vô cùng, ví như mạnh khỏe hơn, sống thọ hơn, giầu sang hạnh phúc hơn, con cái ngoan hiền hơn, sự nghiệp cát tường như ý hơn .... Mời xem hướng dẫn phương pháp niệm: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát.
II- Niệm nam Mô A Di Đà Phật rất nhiệm mầu.
+ Một phương pháp tu nhất tâm niệm phật Ba la mật để được vãng sanh đến cõi nước của đức Phật A Di Đà. Pháp tu phù hợp với thời mạt pháp, phù hợp với tất cả các căn cơ chúng sinh, chỉ cần là người thiện lành, có tín tâm thành kính, hàng ngày niệm Nam Mô A Di Đà Phật không ngừng, đến mức tâm tự niệm thì có cơ được vãng sanh, hóa sanh qua hoa sen, được giải thoát luân hồi khổ đau, tu một kiếp thành Phật. Mời đọc Thành hiền hướng dẫn tu niệm Phật vãng sanh. Mời xem tại đây
+ Mời đọc hàng trăm câu hỏi - Thánh hiền trả lời về pháp tu Tịnh Độ - Niệm Phật: Xem tại đây
Nhân Trắc Học tổng hợp tóm lược kiến thức của Thánh hiền dạy, chắc chắn không tránh khỏi nhiều sai sót, đề nghị quí đọc giả đọc các bản Kinh văn, giáo lý gốc (Có đường Link đính kèm) để hiểu thấu suốt, cùng thực hành để có thành tựu đạo quả viên mãn.
Xin chân thành cảm ơn!